Pháp luật Việt Nam về tham vấn cộng đồng trong đánh giá tác động môi trường - 2

Chương trình môi trường của Liên hợp quốc cũng định nghĩa ĐTM là “một quá trình nghiên cứu được sử dụng để dự báo những hậu quả môi trường có thể gây ra từ một dự án phát triển quan trọng được dự kiến thực thi.” Định nghĩa này nhấn mạnh đến tính dự báo của một báo cáo ĐTM. Dự báo ở đây có nghĩa là đưa ra những ảnh hưởng trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực của dự án để cơ quan thẩm định cũng như các bên liên quan xem xét khi dự án mới bắt đầu manh nha hình thành.

Cục môi trường Anh xác định ĐTM là “một kỹ thuật hoặc một quy trình nhằm giúp các chuyên gia phát triển tập hợp những thông tin ảnh hưởng đối với môi trường của một dự án và những thông tin này sẽ được nhà quản lý quy hoạch sử dụng để đưa ra những quyết định về phương hướng phát triển.”

Luật BVMT của Việt Nam năm 1993, năm 2005 và mới đây nhất là năm 2014 cũng đưa ra định nghĩa ĐTM. Ngay từ năm 1980, thông qua các hoạt động trao đổi, nghiên cứu cũng như tập huấn do các tổ chức quốc tế như Chương trình Môi trường Liên hợp quốc thực hiện, các nhà khoa học Việt Nam đã có cơ hội được tiếp xúc với công tác ĐTM. Trong thời kỳ này, mặc dù pháp luật chưa quy định nhưng một số dự án đã tiến hành việc lập báo cáo ĐTM như Công trình xây dựng Nhà máy Giấy Bãi Bằng, công trình Thuỷ lợi Thạch Nham, công trình Thuỷ điện Trị An, Nhà máy lọc dầu Thành Tuy Hạ3

Khi Luật BVMT đầu tiên của Việt Nam được thông qua vào tháng 12 năm 1993, các vấn đề về đánh giá môi trường trong phát triển kinh tế xã hội đã được quan tâm và xem xét. Tại khoản 11, điều 2 quy định: “ĐTM là quá trình phân tích, đánh giá, dự báo ảnh hưởng đến môi trường của các dự án, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và các công trình khác, đề xuất các giải pháp thích hợp về BVMT.” Tuy nhiên, sau một thời gian dài đi vào thực thi, các nhà quản lý môi trường đã nhận ra việc thực hiện ĐTM chưa thực sự tốt. Vẫn còn rất nhiều những dự án mặc dù đã lập báo cáo ĐTM dường như không có tác dụng

3 Giáo trình đánh giá tác động môi trường, Đại học Thái Nguyên, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 2013, trang 9.

thực tiễn. Chính vậy mà Luật BVMT năm 2005 sau quá trình học hỏi kinh nghiệm từ các nước trên thế giới cũng như đúc rút kinh nghiệm từ thực tiến áp dụng pháp luật Việt Nam đã đưa ra một khái niệm ĐTM khác. Khoản 20, điều 3 quy định: “ĐTM là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp BVMT khi triển khai dự án đó.”

Trong Luật BVMT năm 2014, khái niệm về ĐTM không có gì thay đổi so với luật cũ. Các nhà làm luật vẫn giữ nguyên quan điểm theo tinh thần luật BVMT 2005 về ĐTM quy định tại khoản 23 điều 3: “ĐTM là việc phân tích, dự báo tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp BVMT khi triển khai dự án đó.”

Mặc dù có cách định nghĩa khác nhau, nhưng nhìn chung khái niệm “Đánh giá tác động môi trường” đã được xây dựng trên tinh thần như là một công cụ hữu hiệu phục vụ cho việc phòng ngừa và ngăn chặn những ảnh hưởng tới môi trường. Việc nghiên cứu, phân tích trong quá trình ĐTM của một kế hoạch, một chính sách, một chương trình hay dự án chính là những cơ sở quan trong để tiến hành dự báo trước những ảnh hưởng tới môi trường, trên cả phương diện tích cực và tiêu cực. Các hệ quả này phải được xem xét một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực và với mọi đối tượng, ví dụ như hệ sinh thái xung quanh (môi trường sống của động, thực vật), khí hậu, khí quyển, đời sống sức khỏe và tinh thần của con người4. Đồng thời, cũng phải xem xét các tác động có thể xảy ra trong suốt các giai đoạn thiết kế, thực hiện cũng như vận hành một dự án. Đi kèm với việc dự báo các ảnh hưởng thì bản báo cáo ĐTM cũng phải đề xuất ra các phương án phòng ngừa thiệt hại, khắc phục rủi ro để BVMT. Cơ quan thẩm định dựa trên những đánh giá, báo cáo để đưa ra quyết định có nên đưa dự án vào thực hiện hay không. Mặc dù việc đánh giá có thể gây ra một số khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế và một số tranh luận về chính trị và xã hội,


4 ĐTM là gì?, http://phantichmoitruong.com/detail/danh-gia-tac-dong-moi-truong-dtm-la- gi.html, truy cập 8:34 ngày 21/3/2016

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 48 trang tài liệu này.

nhưng nhìn chung, trong tầm nhìn dài hạn, ĐTM là một thủ tục cần thiết để BVMT, bằng cách cung cấp một nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững.

1.1.2. Khái niệm tham vấn cộng đồng và pháp luật về tham vấn cộng đồng trong đánh giá tác động môi trường

Pháp luật Việt Nam về tham vấn cộng đồng trong đánh giá tác động môi trường - 2

Tham vấn

Tham vấn là từ Hán- Việt. Từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn năm 2008 định nghĩa: “tham” là dự vào, xen vào, chen vào; “vấn” là hỏi. Như vậy, tham vấn là việc hỏi để tham khảo ý kiến về một vấn đề nào đó, thường quan trọng và mang tính chuyên môn. Theo nghĩa này, tham vấn cũng đã được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam và được coi là một thủ tục quan trọng. Trong quá trình xây dựng pháp luật và chính sách, các cơ quan nhà nước cần phải hỏi ý kiến công chúng để có cơ sở quyết định. Tiêu biểu nhất phải kể đến việc tham vấn ý kiến nhân dân khi ban hành Hiến pháp hoặc một văn bản pháp luật mới như các Luật, Nghị định… Việc tham vấn giúp cho vấn đề được nhìn nhận đa chiều, từ phía các đối tượng khác nhau để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Cộng đồng

“Cộng đồng” là một từ quen thuộc được sử dụng trong đời sống hàng ngày cũng như trong các quy định pháp luật. Từ điển tiếng Việt đưa ra khái niệm cộng đồng như sau: “Cộng đồng là toàn thể những người cùng sống, có những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối sinh hoạt trong xã hội.”5

Trong quy định của các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, người ta đã đưa ra khái niệm “cộng đồng” bằng cả phương thức trực tiếp cũng như gián tiếp:

Theo đó, Bộ Luật dân sự 2005 cũng như Bộ Luật dân sự 2015 (chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017) đều gián tiếp đưa ra khái niệm cộng đồng thông qua quy định về quyền sở hữu cộng đồng. Cụ thể, tại Điều 211 Bộ Luật dân sự 2015 quy định về quyền sở hữu của cộng đồng thì “Sở hữu chung



5 Trung tâm từ điển học Việt Nam (2008), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.275

của cộng đồng là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc, cộng đồng tôn giáo và cộng đồng dân cư khác đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích chung hợp pháp của cộng đồng.” Như vậy, trên tinh thần của Bộ Luật dân sự thì cộng đồng gồm “dòng họ, thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc, cộng đồng tôn giáo và cộng đồng dân cư khác.”

Tại Khoản 3 Điều 5 Luật Đất đai 2013 cũng đưa ra khái niệm cộng đồng như sau: “Cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ.” Trong Luật này, nhà làm luật nhìn cộng đồng dưới góc độ là một trong những chủ thể sử dụng đất và đưa ra khái niệm cụ thể, chi tiết hơn, không chỉ bao gồm các yếu tố, đơn vị cấu thành nên một cộng đồng mà còn trình bày các đặc điểm của một cộng đồng “có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ.”

Cũng đưa ra khái niệm cộng đồng nhưng ở một phạm vi địa lý hẹp hơn, khoản 13 Điều 3 Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004 quy định: “Cộng đồng dân cư thôn là toàn bộ các hộ gia đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc hoặc đơn vị tương đương.”

Hiện nay, trong Luật BVMT và các văn bản dưới luật chưa đưa ra khái niệm “cộng đồng” mặc dù nó được sử dụng thường xuyên. Tuy nhiên, bằng việc nghiên cứu các đặc trưng của khái niệm “cộng đồng” trong các lĩnh vực pháp luật khác, cũng như những đặc điểm của khái niệm này trong quy định pháp luật về BVMT, có thể hiểu: Cộng đồng là một tập hợp công dân cư trú trong một khu vực địa lý, hợp tác với nhau vì những lợi ích chung và chia sẻ những giá trị văn hoá chung. Một số tổ chức chính trị - xã hội cũng có thể đại diện cho cộng đồng như: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân...6


6 Hướng dẫn tham vấn ý kiến cộng đồng trong quá trình lập, thẩm định báo cáo ĐTM, tài liệu hướng dẫn của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương, Bình Dương, 2012, tr.9

Cộng đồng là một tập hợp dân cư có lịch sử gắn bó lâu dài và chia sẻ nhiều đặc điểm chung. Ở cộng đồng có những nét đặc trưng tiêu biểu mà các cá nhân không có. Do được tạo nên nhờ sự gắn kết giữa các cá thể khác nhau, cộng đồng mang những sức mạnh nổi bật như: tính đoàn kết, gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau vì quyền lợi chung (sức mạnh tập thể bao giờ cũng lớn hơn sức mạnh cá nhân); sự sáng tạo và duy trì các kiến thức bản địa (đây là một đặc trưng văn hoá phi vật thể, lan truyền và bổ sung từ thế hệ này qua thế hệ khác, tạo ra sức sống của cộng đồng trong quá trình sản xuất và bảo vệ cuộc sống); lòng tự hào về truyền thống của làng xóm, của quê hương gắn với tình yêu dân tộc, đó cũng chính là cuội nguồn lớn nhất của sức mạnh cộng đồng.”7

Chính vì mang những nét đặc trưng tiêu biểu như vậy nên sự tham gia của cộng đồng khác với sự tham gia của từng cá nhân riêng lẻ.

Hiện nay, công tác BVMT đang gặp phải vô vàn khó khăn, thách thức khi luôn xuất hiện sự xung đột lợi ích giữa một hoặc một vài cá nhân cụ thể với cả cộng đồng xã hội. Môi trường sống là của cả xã hội và mọi người đều hưởng lợi ích từ môi trường cũng như có nghĩa vụ BVMT, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi của cá nhân gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Tuy nhiên, có nhiều tổ chức, cá nhân vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình đã sẵn sàng tiến hành những hoạt động gây ảnh hưởng đến môi trường sống xung quanh. Nói cách khác, công tác BVMT đang phải đối mặt với các mâu thuẫn trong suy nghĩ, thái độ, hành vi về môi trường giữa các nhóm người khác nhau trong xã hội, giữa người này với người khác và ngay cả trong bản thân một con người8. Chính vì lẽ đó, việc dựa vào sức mạnh cộng đồng là vô cùng cần thiết, là một trong những chìa khóa quan trọng trong công tác quản lý môi trường. Khi đề xuất ra các mục tiêu, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế, xã hội, các nhà hoạch định


7 Vai trò của cộng đồng trong bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên, trên website http://tnmtvinhphuc.gov.vn/index.php/vi/news/Moi-truong/Vai-tro-cua-cong-dong-trong- bao-ve-moi-truong-va-quan-ly-tai-nguyen-133/, truy cập 14:25 ngày 9/3/2016


8 Thùy Dung, Thực trạng và giải pháp cho vấn đề ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam, trên website http://mtnt.hoinongdan.org.vn/sitepages/news/1107/31498/thuc-trang-va-giai- phap-cho-van-de-o-nhiem-moi-truong-nuoc-o-viet-nam, truy cập 22:43 ngày 02/04/2016

chính sách cũng như nhà đầu tư phải có một góc nhìn thống nhất, phải biết phân phối hài hòa lợi ích cũng như đảm bảo sự tham gia của tất cả các cá nhân, tổ chức có liên quan.

TVCĐ trong ĐTM

Để tìm hiểu về khái niệm “tham vấn cộng đồng trong đánh giá tác động môi trường”, trước hết ta cần tìm hiểu về TVCĐ trong pháp luật về BVMT nói chung. Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam chưa có một khái niệm cụ thể về TVCĐ. Cụm từ TVCĐ ở Việt Nam được bắt nguồn từ một số thuật ngữ trên thế giới. “Community consultation” là “một quá trình trong đó các cơ quan nhà nước hay những người lập kế hoạch dự án cung cấp tin tức, tài liệu có liên quan và tiến hành đối thoại với cộng đồng.9 Những ý kiến đóng góp của cộng đồng là cơ sở góp phần hình thành nên dự án, cũng như thúc đẩy việc thực hiện các hành động. Những phản hồi của cộng đồng trong các buổi đối thoại tư vấn sẽ được phản ánh trong bản kế hoạch dự án cuối cùng. “Ở Việt Nam, khái niệm này được dịch chuẩn xác là TVCĐ nhưng cách vận dụng lai sai. Trong một thời gian dài, pháp luật Việt Nam đề cập đến “cộng đồng” trong khái niệm này như một “cấp chính quyền” (UBND xã)”10. Cách hiểu này đã làm hạn chế đi tính tích cực và phạm vi rộng rãi của khái niệm.

“Public consultation” cũng là “một quá trình có sự trao đổi dòng thông tin hai chiều giữa chính phủ và công chúng về cùng một vấn đề để tiến tới mục tiêu đạt được một cách hiểu thống nhất. Trong quá trình trao đổi sẽ tiến hành thu thập thông tin, phản hồi cũng như những ý kiến phản biện của người dân.”11 Ở Việt Nam thường được dịch là “Tham vấn công chúng” (chưa chuẩn xác, vì một cấp chính quyền không thể được coi là “công chúng”); hoặc được dịch là “tham vấn cộng đồng” (hoàn toàn không chuẩn xác). Ở đây, “public” có nghĩa là rộng rãi và công khai. Vì vậy, khái niệm “Public consultation” nên được dịch là



9 Norman Schwartz and Anne Deruyttere (1996), Community Consultation, Sustainable Development and the Inter-American Development Bank, pp.4-5.

10 TS. Nguyễn Khắc Kinh (2015), Tham vấn trong quá trình đánh giá tác động môi trường, tr.3. 11 Delia Rodrigo and Pedro Andrés Amo, Background Document on Public Consultation, pp.1- 2.

“tham vấn mức rộng rãi” (tham vấn tất cả các bên có liên quan) sẽ chuẩn xác hơn12.

TVCĐ được đề xuất thông qua một số thuật ngữ tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Môi trường và phát triển bền vững năm 1992. Mối liên hệ giữa sự tham gia của cộng đồng và vấn đề BVMT được khẳng định thông qua hàng loạt các nguyên tắc. Nguyên tắc 10 tuyên bố: “Vấn đề môi trường phải được giải quyết một cách tốt nhất với sự tham gia của tất cả các cá nhân liên quan, ở cấp độ thích hợp. Cấp độ quốc gia, mỗi cá nhân sẽ được tiếp cận thông tin thích hợp liên quan đến môi trường, do các cơ quan công quyền lưu giữ, bao gồm cả thông tin về các chất và hoạt động nguy hiểm trong cộng đồng của họ, và có cơ hội được tham gia trong quá trình ban hành các quyết định…” Nguyên tắc này khẳng định vị trí quan trọng của cộng đồng trong quá trình BVMT. Sự tham gia của cộng đồng ở các cấp độ khác nhau là một điều kiện cần thiết. Trong quá trình hoạch định và xây dựng các chính sách môi trường, việc tôn trọng và đưa ra các biện pháp đảm bảo sự tham gia tích cực của cộng đồng là một công cụ hữu hiệu. Ngoài nguyên tắc 10, Tuyên bố này còn cụ thể hóa về các đối tượng, thành phần khác nhau của dân số tham gia vào công tác BVMT: phụ nữ (Nguyên tắc 20), thanh niên (Nguyên tắc 21), và người dân bản địa và cộng đồng địa phương (Nguyên tắc 22).

Sự tham gia của cộng đồng cũng được nhấn mạnh trong Chương trình nghị sự 21. Chương 23 tuyên bố rằng: “Một trong những điều kiện tiên quyết cơ bản để đạt được sự phát triển bền vững là sự tham gia rộng rãi của công chúng trong việc ra quyết định.” Trong bối cảnh cụ thể của môi trường và phát triển, phát triển bền vững phải gắn liền với sự tham gia của các đối tượng khác nhau vào quy trình ĐTM và vào việc ra các quyết định. Đặc biệt là phải kể đến sự tham gia của những người có tiềm năng bị ảnh hưởng (tại nơi họ sinh sống và làm việc) bởi các hoạt động kinh tế - xã hội gây ra. Các thông tin liên quan đến môi trường, cụ thể là về các hoạt động có thể tác động xấu đến môi trường, thông tin về các loại sản phẩm, các biện pháp BVMT và kể cả cách thức các nhà quản lý vận hành hệ thống chính quyền cần được công khai để người dân dễ



12 TS. Nguyễn Khắc Kinh (2015), Tham vấn trong quá trình đánh giá tác động môi trường, tr.3.

dàng tiếp cận và đưa ra ý kiến phản hồi khi cần thiết. “Một điểm tiến bộ là chương trình này cũng khuyến khích các chính phủ xây dựng các chính sách tạo điều kiện trao đổi trực tiếp thông tin giữa chính phủ và công chúng về các vấn đề môi trường và cho thấy quá trình ĐTM là một cơ chế tiềm năng để tham gia.”13

Như vậy, TVCĐ là một trong những quyền thủ tục (Procedural rights) thể hiện quyền con người trong lĩnh vực môi trường. Người dân có quyền “được tham gia một cách tích cực, tự do và có ý nghĩa trong lập kế hoạch, ban hành quyết định, có tác động đến môi trường và phát triển. Quyền này bao gồm quyền đánh giá tác động trước về môi trường, phát triển và hậu quả tác động của quyền con người đối với các đề xuất hành động.”14 Đây đồng thời cũng là một nghĩa vụ của cơ quan nhà nước cũng như các chủ dự án trong quá trình tiến hành các kế hoạch, dự án.

Trên thực tế, việc TVCĐ đã được thể hiện ở một trong những công cụ hữu hiệu để BVMT chính là Báo cáo ĐTM. Báo cáo ĐTM là một văn bản tạo cơ sở pháp lý cho mọi quyết định và hoạt động trong quá trình ĐTM của các chủ thể liên quan. Một báo cáo ĐTM phải thể hiện sự quan tâm của các cá nhân, tổ chức đầu tư, chủ dự án, các cấp chính quyền cũng như cộng đồng địa phương đối với môi trường xung quanh. Việc dự báo các tác động tới môi trường cùng những giải pháp để khắc phục hậu quả xấu có thể xảy ra cũng là những nội dung cần thiết. Trong quá trình lập, thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM, TVCĐ đóng vai trò vô cùng to lớn. Sự tham gia này có ý nghĩa không chỉ về phần thủ tục mà còn đóng góp đáng kể, tạo nên sự đa dạng, khách quan cũng như củng cố tính đúng đắn, thực tiễn và khả thi cho báo cáo ĐTM. Nhận biết được tầm



13 Đào Thị Minh Hương, Quyền con người với môi trường: Nhận thức cộng đồng quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, Nghiên cứu con người, tháng 2/2011, trang 15

14 Draft Declanration of principles on Human rights and the Environment, 1994. http://www.yale.edu/lawweb/avalon/diana/undocs/331989-11.html, truy cập 16:37, ngày 20/03/2016.

quan trọng của TVCĐ, pháp luật Việt Nam đã quy định cụ thể về thủ tục này trong Luật BVMT cũng như các văn bản dưới luật.

Từ đó, ta có khái niệm “Pháp luật về TVCĐ trong ĐTM” như sau: Pháp luật về TVCĐ trong ĐTM là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề phát sinh trong quá trình tham gia của cộng đồng trong việc lập, thẩm định báo cáo ĐTM và trao đổi thông tin giữa chủ dự án; giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thẩm định báo cáo ĐTM của dự án với các bên có liên quan đến dự án. Những hành vi vi phạm quy định về TVCĐ trong quá trình ĐTM sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Mặc dù quy định về TVCĐ xuất hiện khá muộn trong các văn bản pháp luật nhưng không thể phủ nhận tính đa dạng và hữu hiệu của hệ thống pháp luật về TVCĐ nói chung và TVCĐ trong ĐTM nói riêng.

1.2. Mục đích, ý nghĩa của các quy định pháp luật về tham vấn cộng đồng trong đánh giá tác động môi trường

Thực tiễn thi hành pháp luật trên thế giới và ở Việt Nam đều khẳng định sự tham gia của người dân chính là một trong những chìa khóa quan trọng trong quá trình từ xây dựng, thực thi đến sửa đổi chính sách. Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển (1992) cũng đã nhấn mạnh “Các vấn đề môi trường được giải quyết tốt nhất khi có sự tham gia của tất cả các công dân quan tâm.” Điều này đã thể hiện vai trò quan trọng của cộng đồng và các tổ chức xã hội trong BVMT, đặc biệt trong việc quản lý các dự án đầu tư có tác động tiêu cực đối với môi trường. “Sự tham gia và giám sát của các tổ chức xã hội và cộng đồng không chỉ đóng góp thêm nguồn lực cho Nhà nước để thực hiện công tác BVMT mà còn giúp đạt được sự đồng thuận trong quá trình triển khai dự án đầu tư, hạn chế các tranh chấp và xung đột liên quan đến môi trường.”15

Thực tiễn cho thấy, sự tham của cộng đồng còn là biểu hiện việc hiện thực hóa các quyền về môi trường. Bằng việc đảm bảo quyền được tham gia, đóng góp ý kiến của những cá nhân hay nhóm cộng đồng có nguy cơ chịu ảnh hưởng


15 Nguyễn Hoàng Phượng, Đỗ Hải Linh, Trần Thanh Thủy (2015), Thể chế hóa quy trình tham vấn trong quy trình đánh giá tác động môi trường, tr.2

bởi các hành vi gây nguy hại đến môi trường, công dân thể hiện được sự tích cực, chủ động đối với các kế hoạch, chính sách của nhà nước liên quan đến môi trường. Đó cũng chính là một phương pháp để thúc đẩy việc dân chủ hóa các quyết định môi trường. Quá trình tham gia đóng góp ý kiến của người dân sẽ hạn chế quyền lực “quan liêu” của những người ban hành chính sách, quyết định cũng như bảo đảm sự cân bằng giữa lợi ích BVMT - phát triển bền vững với nhu cầu tăng trưởng kinh tế16. Vì vậy, việc thực hiện các quyền có tính chất thủ tục này là rất quan trọng để có được chính sách tốt về môi trường và qua đó sẽ tạo ra một môi trường bảo đảm cho sức khỏe, bảo vệ lợi ích số đông, lợi ích cộng đồng, bảo vệ những người dễ bị tổn thương trong xã hội như trẻ em, phụ nữ, người nghèo, dân tộc thiểu số…

Thông qua các hoạt động nghiên cứu, phân tích và dự báo các tác động có thể xảy ra đối với môi trường và qua đó đề xuất các biện pháp BVMT, báo cáo ĐTM thực chất chính là lời cam kết của chủ dự án trước các cơ quan quản lý tài nguyên môi trường và cộng đồng nhân dân có liên quan đến dự án về việc phát huy các ảnh hưởng tích cực và hạn chế, khắc phục các ảnh hưởng tiêu cực đối với tài nguyên môi trường của dự án. Cùng với các cơ quan nhà nước có trách nhiệm, các cộng đồng dân cư có thể bị ảnh hưởng bởi các tác động lên môi trường của dự án phải được biết về nội dung của lời cam kết của chủ dự án trong báo cáo ĐTM để xem xét, chấp nhận, để kiểm tra, giám sát việc thực hiện và góp phần tham gia thực hiện dự án. Cộng đồng hoàn toàn có khả năng lên tiếng kiến nghị khi xét thấy việc thực hiện dự án có khả năng gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng không thể khắc phục. Vì vậy mà các quốc gia và các tổ chức quốc tế liên quan đến quản lý báo cáo ĐTM luôn coi việc TVCĐ là một yêu cầu bắt buộc đối với một báo cáo ĐTM. Trên cơ sở được cung cấp thông tin và đóng góp ý kiến, cộng đồng dân cư có liên quan sẽ có cơ hội kiểm chứng các thông tin môi trường trong báo cáo là đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế, khả thi về các biện pháp tài nguyên môi trường và kinh tế xã hội mà chủ dự án sẽ thực hiện sau khi dự án được cơ quan có thẩm quyền của nhà

16 Nguyễn Hoàng Phượng, Đỗ Hải Linh, Trần Thanh Thủy (2015), Thể chế hóa quy trình tham vấn trong quy trình đánh giá tác động môi trường, tr.13

nước, hoặc các tổ chức tài trợ của các chính phủ nước ngoài, các ngân hàng đầu tư phê duyệt.

Theo kinh nghiệm hoạt động tại nhiều quốc gia của Ngân hàng Thế giới (WB) thì TVCĐ báo cáo ĐTM không làm chậm trễ việc thực hiện dự án như lo ngại của các nhà đầu tư. Ngược lại, đối với các dự án không tiến hành TVCĐ, hoặc việc TVCĐ khi lập báo cáo ĐTM diễn ra qua loa, hình thức thường sẽ bị chậm trễ và có kết quả thực hiện kém hơn do có thể xuất hiện các mâu thuẫn lợi ích hoặc phát sinh những thiệt hại không thể lường trước được.

Cụ thể, đối với từng đối tượng có liên quan thì TVCĐ có những ý nghĩa sau đây:

Đối với cơ quan thẩm định

Giúp cho cơ quan thẩm định có cái nhìn toàn diện hơn về dự án trên cơ sở các ý kiến đóng góp của chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư bị tác động. Từ đó, nâng cao sự hiệu quả và chính xác cho công tác thẩm định.

Đối với chủ đầu tư

Thực tiễn cho thấy sự tham gia kịp thời và hiệu quả của cộng đồng và các bên liên quan sẽ mang lại lợi ích cho chính nhà đầu tư trong quá trình thực hiện ĐTM cũng như khi triển khai dự án. Các ý kiến phản hồi có thể hỗ trợ chủ đầu tư dự án xác định các rủi ro tiềm ẩn về mặt kinh tế, xã hội và môi trường mà quá trình thiết kế dự án có thể chưa tính đến, đồng thời gợi mở những phương án ứng phó và giảm thiểu rủi ro.

Các chuyên gia môi trường cho rằng, tham vấn công khai giúp nhà đầu tư thu thập thêm và kiểm tra chéo thông tin phục vụ quá trình ĐTM, tận dụng được trí tuệ và kinh nghiệm của các chuyên gia khác trong các lĩnh vực liên quan để hoàn thiện ĐTM, tiếp cận được kiến thức bản địa để xây dựng các biện pháp giảm thiểu các tác động của dự án, củng cố sự tin tưởng của cộng đồng, chính quyền và các bên liên quan khác đối với chủ đầu tư, hạn chế được các xung đột khi triển khai dự án.

Đối với cơ quan tư vấn

Khi nhận được các ý kiến phản hồi của chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư bị tác động, các cơ quan tư vấn sẽ có cơ sở để đề xuất các biện pháp giảm thiểu phù hợp và hiệu quả. Từ đó sẽ giúp hoàn thiện hơn bản báo cáo đánh giá các tác động của dự án.

Đối với UBND cấp xã

Việc TVCĐ giúp cho lãnh đạo UBND cấp xã, cộng đồng dân cư bị tác động hiểu rõ hơn về dự án ở các khía cạnh sau: những lợi ích đạt được khi triển khai dự án, những tác động lên môi trường của việc thực hiện dự án và những biện pháp giảm thiểu có thể áp dụng cho dự án. Bên cạnh đó, việc tham vấn ý kiến cộng đồng còn tạo cơ hội để chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư phản ánh được các vấn đề và các mối quan tâm đối với dự án.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/04/2022