Tại các khu vực vùng núi, vùng sâu vùng xa, nơi mà người dân ít có cơ hội được tiếp xúc trực tiếp với các chính sách nhà nước thì việc nhận thức về quyền được tham vấn chưa được cao. Tuy nhiên, các khu vực nông thôn, làng nghề và dân cư tại các khu kinh tế có nền trí thức cao hơn nhưng không phải tất cả đều biết và quan tâm tới việc bảo vệ quyền lợi của mình trong việc được tham vấn ý kiến khi có các dự án tại khu vực đó. Người dân thường không quan tâm nhiều đến các tác động tới môi trường chung mà chỉ chú ý đến các quyền lợi sẽ nhận được khi dự án được hình thành. Nắm bắt được tâm lý này, nhiều chủ dự án chỉ trình bày các tác động tích cực của dự án trong quá trình tham vấn ý kiến để nhận được sự đồng thuận của cộng đồng.
Trong quá trình lập báo cáo ĐTM, phần lớn các chủ dự án và cơ quan tư vấn có tham vấn ý kiến cộng đồng, nhất là đối với các dự án có liên quan đến vấn đề giải phóng mặt bằng, tái định cư. Tuy nhiên, hầu hết việc tham vấn này mới chỉ được tiến hành bằng hình thức phiếu điều tra xã hội học hoặc phỏng vấn trực tiếp, mặt khác, việc tham vấn mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu nguyện vọng hay phản ứng của cộng đồng dân cư về dự án. Việc TVCĐ nhằm mục đích khai thác các kiến thức bản địa hầu như chưa được tiến hành. Nguyên nhân chính là do các chủ dự án chưa có sự đầu tư thoả đáng về thời gian và kinh phí cho việc này, mặt khác, chưa có quy định một cách rõ ràng và cụ thể đối với loại hình hoạt động này.
Trong quá trình thẩm định báo cáo ĐTM hầu như chưa huy động được sự tham gia của cộng đồng. Lý do chính là số lượng thành viên Hội đồng được giới hạn theo quy định nên việc mời đại diện cộng đồng tham gia Hội đồng là khó thực hiện. Thêm vào đó, thời hạn quy định cho việc thẩm định báo cáo ĐTM rất eo hẹp. Ngoài ra, điều kiện về vật chất, kỹ thuật để đưa báo cáo ĐTM tới công chúng cũng rất khó khăn.
Thứ tư, thời gian tham vấn còn hạn chế.
Thời gian tham vấn quá ngắn, chỉ vỏn vẹn trong 15 ngày là một nguyên nhân khiến việc TVCĐ trở nên sơ sài, chiếu lệ. Sau khi nhận được báo cáo ĐTM
cùng một số văn bản liên quan, UBND cấp xã cùng như một số đối tượng có liên quan chỉ có 15 ngày đề vừa nghiên cứu các nội dung báo cáo ĐTM, vừa phản biện các nội dung đó. Trình độ dân trí còn hạn chế, và không phải đối tượng nào cũng có cơ hội được tiếp xúc đầy đủ với các vấn đề liên quan đến dự án. Vì lẽ đó, việc cộng đồng dân cư chưa đưa ra được nhiều ý kiến phản hồi là điều dễ hiểu. Đặc biệt hơn, có nhiều trường hợp cơ quan nhà nước cũng gửi văn bản lấy ý kiến tổ chức xã hội, nhưng lại trong thời gian rất ngắn, thậm chí gửi hôm nay thì yêu cầu hôm sau phải trả lời. Một số dự án thì lại đã chuẩn bị sẵn và trao nội dung trả lời tư vấn theo hướng nhất trí với báo cáo ĐTM mà dự án đã chuẩn bị.
Thậm chí, ngay với một báo cáo ĐTM của những dự án lớn về phát triển kinh tế xã hội, Luật BVMT 2014 quy định: chỉ tư vấn trong vòng 30 ngày. Đây là một điều bất khả thi. Nó sẽ vô hiệu hóa việc tư vấn, làm cho tư vấn báo cáo ĐTM mang tính hình thức.
Theo ông Nguyễn Đức Tùng, phó viện trưởng viện Môi trường và phát triển bền vững, kinh nghiệm cụ thể ở Việt Nam cũng như ở hầu hết các nước trên thế giới, không thể làm tốt tư vấn báo cáo ĐTM của những dự án này trong 30 ngày. Thông thường, thời gian đó phải là nhiều tháng, thậm chí hàng năm. Thực tế ở Việt Nam, nhiều báo cáo ĐTM của dự án phát triển lớn đã phải được tư vấn qua nhiều năm.
Thứ năm, thiếu tính khả thi, cơ chế giám sát của cộng đồng.
Các thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt và đảm bảo thực thi báo cáo ĐTM trên thực tế quy định tương đối chặt chẽ việc đảm bảo cho cộng đồng dân cư quyền được tham gia ý kiến, quyền được lắng nghe ý kiến, đặc biệt, các ý kiến không đồng ý triển khai dự án hoặc không đồng ý về các biện pháp BVMT. Các ý kiến phản đối của cộng đồng phải được nêu rõ trong các báo cáo ĐTM trình thẩm định, phê duyệt. Về mặt pháp lý, có thể nói các quy định về thủ tục nhằm đảm bảo sự tham gia của cộng đồng vào quá trình lập, thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM hiện nay tương đối chặt chẽ. Tuy nhiên, hoạt động lập báo cáo ĐTM là hoạt động có tính chuyên môn cao và với nhận thức của cộng đồng dân
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật Việt Nam về tham vấn cộng đồng trong đánh giá tác động môi trường - 1
- Pháp luật Việt Nam về tham vấn cộng đồng trong đánh giá tác động môi trường - 2
- Sơ Lược Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển Của Pháp Luật Việt Nam Về Tham Vấn Cộng Đồng Trong Đánh Giá Tác Động Môi Trường
- Trường Hợp Dự Án Thuộc Địa Bàn Từ Hai (02) Xã Trở Lên, Chủ Dự Án Được Lựa Chọn Hình Thức Cuộc Họp Tvcđ Dân Cư Chịu Tác Động Trực Tiếp Bởi
- Pháp luật Việt Nam về tham vấn cộng đồng trong đánh giá tác động môi trường - 6
Xem toàn bộ 48 trang tài liệu này.
cư thì khó có thể đánh giá được hết các vấn đề chuyên môn của các báo cáo này. Các quy định hiện hành chỉ quy định các thủ tục, trình tự lấy ý kiến TVCĐ, không có bất kỳ cơ chế nào để hỗ trợ về chuyên môn nhằm nâng cao nhận thức và khả năng của cộng đồng trong việc xem xét các nội dung của báo cáo ĐTM. Không được hỗ trợ về các vấn đề chuyên môn, cộng đồng dân cư có thể gặp khó khăn khi đưa ra ý kiến về các dự án triển khai tại địa bàn và trong nhiều trường hợp, các ý kiến được đưa ra không xác đáng hoặc cản trở các dự án đã có các phương án BVMT phù hợp27.
Tương tự là tư vấn cộng đồng. Thực tế đa số hiện nay, việc tư vấn cộng đồng mặc nhiên được xem là tư vấn cấp xã. Tuy nhiên, việc thực hiện một dự án phát triển kinh tế xã hội thường có nhiều tác động tài nguyên môi trường trên phạm vi rộng lớn và phức tạp. Báo cáo ĐTM các dự án cũng đòi hỏi thông tin, kiến thức trên nhiều lĩnh vực khoa học, công nghệ… Trong khi đó, UBND cấp xã không thể bao quát, và có sự hiểu biết về mọi vấn đề mà chỉ có thể nhận biết một số tác động trên một số địa bàn, theo một số phạm vi hoạt động nhất định. Thực tế, tại nhiều địa phương ở nước ta, cấp xã thường chỉ hỏi về tác động đến đất đai, giá cả đền bù, giải phóng mặt bằng... Vì vậy, không thể xem đây là đại diện đầy đủ của cộng đồng liên quan dự án như quy định từ trước đến nay28.
27 Ths. Trần Thị Quang Hồng, Trương Hồng Quang, Hoàn thiện pháp luật ĐTM ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Luật học số 6/2011
28 Làm thủy điện: chẻ nhỏ cư dân để tham vấn, qua mặt lợi ích chung, trên website http://118.70.241.18/english3/news/?55339/Lam-thuy-dien:-che-nho-cu-dan-de-tham-van,-qua-mat-loi-ich-chung.htm, truy cập 16:35 ngày 16/03/1016
CHƯƠNG III. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THAM VẤN CỘNG ĐỒNG TRONG ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về tham vấn cộng đồng trong đánh giá tác động môi trường
Từ khi được xuất hiện sơ khai trong một số dự án trong những năm 1990 và chính thức được luật hóa từ năm 2005 đến nay, các quy định pháp luật về TVCĐ trong ĐTM đã có nhiều bước phát triển. Không thể phủ nhận được tầm quan trọng cũng như những thành tựu đã đạt được của của việc TVCĐ. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu của thực tế của công tác quản lý môi trường thì cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến môi trường, mà cụ thể là pháp luật về TVCĐ.
Thứ nhất, TVCĐ trong ĐTM cũng góp phần đảm bảo sự tham gia của cộng đồng trong BVMT nói chung. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật TVCĐ là một cơ chế để hiện thực các chính sách và mục tiêu BVMT của Nhà nước. Năm 1998, Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 36/CT-TW về vấn đề BVMT trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chỉ thị nêu rõ BVMT là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, cũng như vai trò của toàn xã hội, công dân các tổ chức quần chúng. Đây là những cơ sở quan trọng cho việc xã hội hoá BVMT trong Chiến lược BVMT quốc gia giai đoạn 2001-2010 và định hướng đến năm 2020.Nghị quyết số 41- NQ/TW ngày 15/11/2004 về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đề xuất phương châm của BVMT như sau: “lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường là chính kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; kết hợp giữa sự đầu tư của Nhà nước với đẩy mạnh huy động nguồn lực trong xã hội và mở rộng hợp tác quốc tế; kết hợp giữa công nghệ hiện đại với các phương pháp truyền thống.”29 Nghị quyết này yêu cầu việc phải thiết lập và phát triển các cơ
29 Xem Điều 4 Mục A Chương II Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
sở pháp lý và cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức và cộng đồng tham gia công tác BVMT. Quyết định số 166/QĐ-TTg ngày 21 tháng 01 năm 2014 về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cũng đề ra mục tiêu cần “tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức về BVMT cho cộng đồng theo hướng đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền; tổng kết, nhân rộng các mô hình tự quản, tăng cường vai trò của cộng đồng trong việc giám sát các hoạt động BVMT.”30 Việc hoàn thiện pháp luật về TVCĐ trong ĐTM sẽ giúp cho mục tiêu nhanh chóng đạt được.
Thứ hai, pháp luật Việt Nam đã có một số văn bản quy định về sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ nói chung và trong ĐTM nói riêng. Tuy nhiên, những quy định trong các văn bản này vẫn còn một số bất cập, nhiều quy định chưa rõ ràng gây khó khăn cho việc thực hiện tham vấn, đặc biệt là quy định về xác định đối tượng tham vấn, thời gian tham vấn còn hạn chế, chưa quy định về trách nhiệm của chủ dự án và cộng đồng trong việc giám sát việc thực hiện báo cáo ĐTM hậu thẩm định, chế tài xử lý vi phạm còn nhẹ, chưa tương xứng với những thiệt hại môi trường do… Do vậy, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về BVMT nói chung, và TVCĐ trong ĐTM nói riêng để cộng đồng và các đối tượng có liên quan phát huy được tối đa hiệu quả của TVCĐ.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về TVCĐ trong ĐTM phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc chung của pháp luật, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế trên cơ sở sát với thực tiễn tại Việt Nam. Tháng 6/2005, các đoàn đại biểu tham gia Hội nghị giữa kỳ của các nhà tài trợ cho Việt Nam và đại diện của Chính phủ, các bộ/ngành và một số tỉnh/thành phố của Việt Nam đã thông qua bản Tuyên bố Hà Nội về hiệu quả viện trợ gồm 14 chỉ tiêu và
30 Xem Điều 8 Chương II Quyết định số 166/QĐ-TTg ngày 21 tháng 01 năm 2014 về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
14 mục tiêu định hướng đến năm 201031. Trong các chỉ tiêu đó có chỉ tiêu số 8 về ĐTM và đánh giá tác động xã hội. Chỉ tiêu này xác định đến năm 2010 sẽ có sự hài hoà nhất định giữa các báo cáo ĐTM và đánh giá tác động xã hội của Việt Nam và của các tổ chức quốc tế. Việc thực hiện nghiêm túc cam kết này chắc chắn sẽ tác động đến quy định về TVCĐ trong ĐTM ở Việt Nam32. Tuy nhiên, tới nay kết quả của việc thực hiện cam kết này trong soạn thảo, tham vấn và thẩm định các báo cáo ĐTM ở Việt Nam vẫn chưa thực sự nổi bật.
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tham vấn cộng đồng trong đánh giá tác động môi trường
Trước những hạn chế trong vấn đề cộng đồng tham gia BVMT như hiện nay thì cần có những giải pháp để khắc phục tình trạng này. Cần hoàn thiện những quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cộng đồng trong vấn đề BVMT nói chung, trong công tác ĐTM nói riêng theo hướng quy định cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ tham gia BVMT của cộng đồng.
Thứ nhất, cần mở rộng hợp lý các quy định mang tính nghĩa vụ của cộng đồng trong BVMT. Thể chế hóa các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các tổ chức, đoàn thể, cộng đồng dân cư, cá nhân tham gia công tác ĐTM, mà cụ thể là trong quá trình lập, phê duyệt cũng như trong khâu hậu thẩm định và thực hiện dự án.
Thứ hai, xây dựng các chế tài xử phạt thích đáng, đảm bảo cho các quy định của pháp luật được cộng đồng cũng như các bên liên quan thực hiện nghiêm túc. Có nhiều biện pháp xử phạt nghiêm minh, kịp thời nhằm tạo thành công luận trong xã hội ủng hộ việc làm tốt, phản đối việc làm sai trái, đấu tranh với những tổ chức, cá nhân cố tính vi phạm pháp luật. Từ đó, hạn chế tư tưởng xem thường pháp luật cũng như đánh giá không đúng vai trò quan trọng của TVCĐ.
31 Cam kết Hà Nội về hiệu quả viện trợ (Hanoi Core Statement, Hanoi 2005)
32 GSTS Lê Thạc Cán, Viện Môi trường và phát triển bền vững, Những việc cần làm để tham vấn cộng đồng trong ĐTM các dự án phát triển kinh tế - xã hội, http://www.vesdi.org.vn/vn/153n/nhung-viec-can-lam-ve-tham-van-cong-dong-trong- danh-gia-tac-dong-moi-truong-cac-du-an-phat-trien-kinh-te-xa-hoi.html, truy cập 8:43, ngày 5/5/2014
Thứ ba, xây dựng các quy định cần vận dụng hiệu quả các công cụ như: chính trị, tuyên truyền… đặc biệt là công cụ kinh tế. Bởi lẽ, công cụ kinh tế có tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới cộng đồng. Có các quy định tăng cường tính lợi ích của cộng đồng khi tham gia vào công tác ĐTM.
Thứ tư, xây dựng các quy định bằng pháp luật để tạo cơ sở pháp lý về sự tham gia của cộng đồng và công chúng vào các hoạt động trong xây dựng, thẩm định và hậu thẩm định báo cáo ĐTM, từ việc đưa ra những ý kiến liên quan đến những ảnh hưởng trực tiếp của dự án đối với cộng đồng, cũng như đề xuất ra các phương án khắc phục các ảnh hưởng tiêu cực. Các quy định được xây dựng phải đảm bảo được lợi ích của cộng đồng tham gia, đồng thời phải có cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để công chúng có thể dễ dàng tiếp cận các thông tin và phản hồi ý kiến một cách dễ dàng.
3.3. Một số đề xuất, kiến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tham vấn cộng đồng trong đánh giá tác động môi trường
Sau khi nghiên cứu những quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về TVCĐ trong ĐTM, tác giả xin đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về TVCĐ trong ĐTM như sau:
Thứ nhất, cần phải xác định rõ đối tượng tham vấn. Để xác định được đối tượng tham vấn cần căn cứ vào từng loại tác động theo từng loại hình dự án và từng giai đoạn thực hiện dự án. Trong từng giai đoạn của dự án, mức độ tác động đến môi trường và đời sống cộng đồng là khác nhau đối với các đối tượng khác nhau. Vì thế, cần xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật cho báo cáo ĐTM của các dự án đặc thù, trong đó, xác định rõ các loại tác động của dự án theo các giai đoạn từ đầu tư, xây dựng, vận hành. Bên cạnh đó, việc xác định các loại hình dự án cũng giúp xác định nhóm tổ chức cần được tham vấn, đặc biệt là các tổ chức xã hội - nghề nghiệp liên quan đến khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
Dự án sản xuất điện từ khí đốt tự nhiên ở vùng nước sâu Malampaya (gọi tắt là dự án Malampaya) được đánh giá là dự án điển hình của Phi-líp-pin về việc tham vấn công khai rộng rãi trong quá trình thực hiện ĐTM. Tham vấn dự án đã
được triển khai từ trước khi tiến hành ĐTM, không chỉ thực hiện với các cộng đồng địa phương nơi đặt địa điểm nhà máy, công xưởng sửa chữa tàu mà còn cả những khu vực liên quan có khả năng bị tác động. Việc xác định phạm vi tham vấn đối với một dự án quy mô lớn và trải dài như Malampaya tương đối phức tạp và khó khăn. Cơ quan quản lý cũng không có tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng tham vấn. Tuy nhiên, Pilipinas Shell Foundation - công ty chuyên trách công tác xã hội của Shell tại Phi-líp-pin đã tổ chức TVCĐ rất bài bản.
Luật BVMT hiện nay quy định các đối tượng tham vấn bao gồm UBND cấp xã, tổ chức, cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp từ dự án. Quy định này bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu về sự tham gia của các đối tượng có liên quan đến dự án. Tuy nhiên, học hỏi kinh nghiệm từ nước bạn cũng như dựa vào tình hình thực tế và tính chất các dự án của Việt Nam, cần quy định rộng rãi các đối tượng tham vấn như sau:
1) Các cộng đồng nhân dân trực tiếp chịu các tác động tích cực hoặc tiêu cực về tài nguyên môi trường của dự án, các UBND các cấp có trách nhiệm quản lý tài nguyên môi trường trên địa bàn dự án. Cấp đó là cấp xã nếu dự án chỉ có tác động đến môi trường trên địa bàn một xã, là cấp huyện nếu dự án có các ảnh hưởng đến môi trường trên địa bàn nhiều xã trong huyện, là cấp tỉnh nếu dự án có tác động đến môi trường trên nhiều huyện trong tỉnh.
2) Các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các cơ quan thông tin, truyền thông có nhiệm vụ hoạt động về tài nguyên môi trường trên địa bàn của dự án.
3) Các chuyên gia Việt Nam, các công dân Việt Nam quan tâm, am hiểu về tác động tới môi trường của dự án, có nguyện vọng đóng góp vào TVCĐ về tài nguyên môi trường của dự án và được một tổ chức có trách nhiệm tham gia TVCĐ báo cáo ĐTM của dự án mời cùng tham dự tham vấn.
4) Các tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực, chuyên gia nước ngoài có nhiều kinh nghiệm về các vấn đề tài nguyên môi trường liên quan đến dự án, có nguyện vọng tham vấn về nội dung báo cáo ĐTM của dự án và được một
tổ chức tổ chức Việt Nam có trách nhiệm tham gia TVCĐ báo cáo ĐTM của dự án mời cùng tham dự tham vấn33.
Thứ hai, xác định cách thức tham vấn. Tính đáng tin cậy và ý nghĩa của tham vấn phụ thuộc rất lớn vào phương pháp và cách thức tham vấn. Đặc biệt là việc TVCĐ ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần được trình bày đơn giản và dễ hiểu cả về hình thức và nội dung. Về mặt hình thức, thông tin nên được thể hiện bằng các ngôn ngữ bản địa, tránh dùng các thuật ngữ kỹ thuật, nếu dùng cần có giải thích cụ thể; tăng sử dụng đồ họa (bản đồ, bảng biểu, hình ảnh, đồ họa máy tính ba chiều) để làm rõ thêm thông tin và tác động; phân loại các thông tin theo từng chủ đề như: khía cạnh pháp lý, khía cạnh kỹ thuật, khía cạnh môi trường, khía cạnh xã hội và văn hóa, khía cạnh sức khỏe, và khía cạnh kinh tế tiềm năng. Về mặt nội dung, thông tin cần trình bày cụ thể và lượng hóa bằng những chỉ số cần thiết tùy thuộc theo từng nhóm dự án. Tùy thuộc vào nhóm đối tượng khác nhau mà có cách tiếp cận và cung cấp thông tin khác nhau để đạt được hiệu quả của tham vấn tốt nhất, như cộng đồng địa phương thì thuyết trình, tập huấn, thực địa hay các sổ tay, tờ rơi thông tin, còn chuyên gia, tổ chức thì các báo cáo phân tích, báo cáo nghiên cứu chuyên sâu.
Đồng thời, cần có hình thức tổ chức tham vấn riêng biệt đối với những hộ dân trực tiếp chịu tác động của dự án như bị giải tỏa trắng, phải di dời nhà cửa của mình tìm nơi sinh sống mới; phải có biện pháp để bảo đảm rằng họ sẽ có cuộc sống ít ra cũng phải bằng hoặc tốt hơn hiện nay khi thực hiện dự án; phải công khai, minh bạch trongviệc giải tỏa đền bù khi thu hồi đất của dân, chỉ thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng theo Luật đất đai, không vì lợi ích nhóm mà thu hồi đất của người này giao cho người khác hoặc tổ chức này cho tổ chức khác. Trên thế giới, vấn đề
33 GSTS Lê Thạc Cán, Viện Môi trường và phát triển bền vững, Những việc cần làm để tham vấn cộng đồng trong ĐTM các dự án phát triển kinh tế - xã hội, http://www.vesdi.org.vn/vn/153n/nhung-viec-can-lam-ve-tham-van-cong-dong-trong-
danh-gia-tac-dong-moi-truong-cac-du-an-phat-trien-kinh-te-xa-hoi.html, truy cập 8:43, ngày 5/5/2014
giải phóng mặt bằng, giải tỏa dân cư đang sinh sống bình yên để thực hiện các dự án phát triển là vấn đề hết sức quan trọng, được ưu tiên quan tâm giải quyết và phải được giải quyết một cách thỏa đáng, công bằng và minh bạch. Đề nghị trong ĐTM đối với các dự án của ta hiện nay cần nhấn mạnh thêm nhiều hơn nữa về vấn đề này thông qua tham vấn ý kiến cộng đồng34.
Thứ ba, tăng thời gian tham vấn. Như đã phân tích ở trên, mục đích tham vấn là nhằm hoàn thiện báo cáo ĐTM, hạn chế thấp nhất các tác động xấu đến môi trường và con người, bảo đảm sự phát triển bền vững của dự án. Do đó, việc thực hiện tham vấn cần thực hiện trong suốt quá trình xây dựng báo cáo ĐTM và cả trong quá trình thực hiện báo cáo ĐTM đã được duyệt để đảm bảo những tác động xấu đến môi trường và con người được hạn chế ở mức thấp nhất. Nhân dân cần có đủ thời gian để có thể tham vấn một cách hiệu quả. Thời gian ngắn quá không cho phép nhân dân có khả năng nhận thức, đánh giá các vấn đề trong báo cáo ĐTM. Thời gian càng dài càng giúp cho nhân dân có cơ hội đưa ra những ý kiến xác đáng hơn. Mặc dù Nghị định 18/2015/NĐ-CP quy định thời hạn 15 ngày làm việc cho UBND cấp xã và tổ chức chịu tác động trực tiếp, tuy nhiên, quy định này nên được hiểu theo nghĩa 15 ngày cho việc lấy ý kiến tham vấn đối với báo cáo cuối cùng trước khi trình duyệt. Điều này có nghĩa, UBND cấp xã và tổ chức có thể được tiếp cận thông tin về báo cáo ĐTM ngay từ hoặc trước thời điểm họp lấy ý kiến cộng đồng dân cư. Theo đó, thời gian 15 ngày là khoảng thời gian cân nhắc cho báo cáo cuối cùng (sau khi chỉnh sửa theo ý kiến và kiến nghị của cộng đồng) trước khi UBND xã và tổ chức bị ảnh hưởng đưa ra quyết định cuối cùng về báo cáo ĐTM của dự án.
Thứ tư, quy định về cơ chế trao đổi thông tin giữa chủ dự án và các đối tượng được tham vấn. Tham vấn là cơ chế trao đổi thông tin mang tính hai chiều giữa bên tổ chức tham vấn và bên được tham vấn. Vì vậy, quy trình tham vấn cần đảm bảo việc trao đổi thông tin thông suốt. Một mặt, thông tin liên quan đến
34 Nguyễn Hoàng Phượng, Đỗ Hải Linh, Trần Thanh Thủy (2015), Thể chế hóa quy trình tham vấn trong ĐTM, tr.9
dự án cần được chuyển tải đến đối tượng chịu tác động một cách hiệu quả. Mặt khác, những ý kiến phản hồi từ cơ sở cần được tiếp nhận và xử lý. Cần có các tiêu chí cụ thể để xác định “những ý kiến khách quan, kiến nghị hợp lý” phải nghiên cứu tiếp thu và yêu cầu trách nhiệm giải trình đối với các bên liên quan về những ý kiến và kiến nghị này. Đầu mối tiếp nhận thông tin cần được thiết lập không chỉ ở cơ quan quản lý nhà nước mà cả ở phía đơn vị đầu tư. Ngoài việc thể chế hóa quy trình này bằng những hướng dẫn và cơ chế cụ thể, cần xây dựng các chế tài kèm theo để đảm bảo việc tuân thủ và thực thi các quy định.
Có nhiều hình thức tiếp nhận - phản hồi thông tin có thể tham khảo như: thông qua cổng thông tin điện tử của các cơ quan, giao lưu trực tuyến, thư điện tử, hòm thư góp ý, điện thoại đường dây nóng (miễn phí), phòng tiếp dân tại cơ quan công quyền, họp đối thoại hoặc trả lời chất vấn, bằng văn bản. Mức độ tiện dụng và hiệu quả của các công cụ này chủ yếu phụ thuộc tính tích cực và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận và phản hồi. Vì vậy, trong hướng dẫn quy trình thực hiện ĐTM và tham vấn, cần quy định rõ về trách nhiệm, chế tài đối với chủ đầu tư và các cơ quan có thẩm quyền về tiếp nhận và phản hồi thông tin về các mối quan tâm của chính quyền, cộng đồng địa phương và tổ chức xã hội đối với dự án đề xuất. Cần phải công khai địa chỉ liên lạc của cá nhân, tổ chức chịu trách nhiệm tiếp nhận và phản hồi thông tin, đồng thời quy định thời hạn cho việc phản hồi35.
Thứ năm, xây dựng cơ chế giám sát thực hiện. Mặc dù Nghị định 19/2015/NĐ-CP đã bước đầu xác lập vai trò của cộng đồng dân cư trong việc tự lựa chọn đại diện của mình giám sát các hoạt động BVMT ở địa phương và vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp trong phản biện, tư vấn, giám sát trong lĩnh vực môi trường cũng được luật hóa tại Chương XV Luật BVMT 2014, tuy nhiên, cơ chế để đảm bảo cho các đối tượng này thực thi quyền vẫn chưa được xác lập cụ thể.
35 Nguyễn Hoàng Phượng, Đỗ Hải Linh, Trần Thanh Thủy (2015), Thể chế hóa quy trình tham vấn trong ĐTM, tr.11
Kinh nghiệm của Phi-líp-pin cho thấy việc giám sát cần có sự tham gia của nhiều bên gồm đại diện cộng đồng, các tổ chức xã hội, đại diện cơ quan quản lý nhà nước và vai trò của các đối tượng này cần phải được thể chế hóa chính thức. Trong dự án Malampaya, việc tham vấn đã được thực hiện qua ít nhất hai vòng, không giới hạn trong cộng đồng bị ảnh hưởng trực tiếp mà mở rộng cho cả các tổ chức phi chính phủ, đại diện nhà thờ và những đối tượng khác có quan tâm. Thông tin về dự án, quy trình thực hiện ĐTM, các hình thức hỗ trợ sinh kế, phát triển xã hội và các dự án cơ sở hạ tầng, các quỹ đều được công bố rộng rãi trước các cuộc tham vấn. Việc tham vấn đã được thiết kế linh hoạt để phù hợp với thực tế, không phụ thuộc vào quá trình ĐTM. Mặc dù vậy, sau khi dự án được cấp giấy chứng nhận tuân thủ điều kiện môi trường, dự án vẫn gặp phải sự cố, đó là việc một số tổ chức phi chính phủ khiếu nại rằng quá trình tham vấn đã không được thực hiện phù hợp, và có những ngư dân phản đối do lo ngại đường ống dẫn khí có thể ảnh hưởng đến ngư trường của họ. Với những phát sinh mới, Shell-Oxy đã tiến hành tham vấn bổ sung và tổ chức họp nhóm với các bên để cùng giải quyết các mối quan tâm chung. Sau này, các bên đã thống nhất thành lập một đội giám sát đa bên gồm đại diện của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và chính quyền địa phương. Đội này có nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ các điều khoản về môi trường ở cả hai cấp là quốc gia và địa phương36.
Pháp luật về tham vấn cộng đồng trong đánh giá tác động môi trường của Trung Quốc cũng có nhiều điểm tiến bộ. Theo đó, luật pháp nước này đảm bảo sự tham gia của người dân vào bốn giai đoạn: lập, thẩm định và giám sát thực hiện báo cáo ĐTM. Trong đó, với quá trình lập báo cáo ĐTM, chủ dự án phải tham vấn ý kiến rộng rãi của người dân; đối với quá trình tham vấn, cơ quan thẩm định phải công bố công khai các báo cáo. Tất cả các ý kiến được tiếp thu hoặc từ chối đều phải được giải trình và được lưu kèm với báo cáo. Kết thúc giai đoạn xây dựng báo cáo, chủ dự án phải lập báo cáo thực hiện. Báo cáo này
36 Nguyễn Hoàng Phượng, Đỗ Hải Linh, Trần Thanh Thủy (2015), Thể chế hóa quy trình tham vấn trong đánh giá tác động môi trường, tr.9