Những Hành Vi Bị Nghiêm Cấm Và Xử Lý Vi Phạm Trong Quảng Cáo


chuẩn thì sẽ gây ra sự lộn xộn và làm xấu cảnh quan, đe dọa phá vỡ quy hoạch đô thị, gây mất an toàn…

Đối với các phương tiện quảng cáo này, pháp luật có các quy định như sau: quảng cáo trên các phương tiện quảng cáo ngoài trời không được che khuất trên 10% diện tích sản phẩm quảng cáo đã đặt trước chưa hết thời hạn, theo hướng phía trước, cách 200m, nhìn vuông góc chính giữa với các quảng cáo có trước; không được che khuất biển báo, đèn tín hiệu giao thông, bản chỉ dẫn công cộng; tại các đô thị, hạn chế quảng cáo có diện tích lớn ngoài trời không phù hợp với quy hoạch đô thị, an toàn xã hội, mỹ quan và cảnh quan môi trường; quảng cáo trên màn hình chuyên quảng cáo ở ngoài trời không được dùng âm thanh; thời hạn đối với quảng cáo ngoài trời không quá 1 năm; khi hết hạn nếu muốn tiếp tục, chủ quảng cáo hoặc tổ chức kinh doanh dịch vụ quảng cáo phải xin gia hạn và sau khi được phép mới được tiếp tục quảng cáo; khi tiến hành quảng cáo phải tuân thủ quy hoạch quảng cáo và phải có giấy phép thực hiện quảng cáo.

Hiện nay, hoạt động quảng cáo ngoài trời có nhiều lộn xộn ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị và trật tự an toàn, đặc biệt tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mà một phần nguyên nhân trong đó là do việc quản lý hoạt động này còn nhiều bất cập. Thứ nhất là về vấn đề quy hoạch quảng cáo ngoài trời. Hiện nay ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đều chưa có một quy hoạch tổng thể đối với quảng cáo ngoài trời mà chỉ có những quy định chung chung như cấm quảng cáo ngoài trời làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông và mỹ quan đô thị. Những quy định như thế khiến cho nhiều biển quảng cáo ngoài trời rất dễ bị xét vào diện “không phù hợp với mỹ quan đô thị” mỗi khi có một “chiến dịch” lập lại trật tự an toàn giao thông và mỹ quan đô thị. Thêm vào đó, các quy định tại các tỉnh, thành phố nhằm quản lý quảng cáo ngoài trời cũng còn nhiều điểm bất hợp lý. Quyết định 108/2002/QĐ-UB của UBND Thành phố Hồ Chí Minh là


một ví dụ. Theo khoản 8 Điều 4 của Quyết định này thì quảng cáo trên các phương tiện vận tải, vận chuyển hành khách công cộng bị cấm, trong khi đó khoản 8 Điều 9 Pháp lệnh Quảng cáo ghi rõ phương tiện giao thông, vật thể di động là một trong những phương tiện quảng cáo. Với Quyết định này, Thành phố đã hạn chế hoạt động quảng cáo trên các phương tiện như xe buýt, taxi, ước tính làm mất đi một nguồn doanh thu khoảng 150 tỷ đồng mỗi năm từ quảng cáo trên các phương tiện này [46]. Hay khoản 9 Điều 7 của Quyết định nêu “Thủ tục hồ sơ xin cấp phép phải có giấy phép thực hiện nội dung quảng cáo của cơ quan quản lý chuyên ngành” trong khi Pháp lệnh cũng không yêu cầu nội dung này. Quy định này đã gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc xin giấy phép quảng cáo ngoài trời. Thực tiễn cho thấy Quyết định này sau một số năm triển khai không mang lại hiệu quả trong công tác quản lý hoạt động quảng cáo ngoài trời, cần phải sửa đổi, bổ sung.

4.4. Quảng cáo trên phương tiện điện tử

Quảng cáo trên các phương tiện điện tử đang ngày càng phổ biến với các hình thức đa dạng như gửi thư điện tử hay tin nhắn qua điện thoại di động, đặt biểu tượng trên các trang tin điện tử... Tuy nhiên, là một loại hình còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam và với tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ thông tin, vấn đề quản lý hoạt động này khá khó khăn và phức tạp.

Các văn bản pháp quy hiện hành của Việt Nam về quảng cáo mới chỉ đề cập đến vấn đề quảng cáo trên mạng thông tin máy tính, mà những quy định này cũng còn hết sức chung chung. Cụ thể, Điều 11 Pháp lệnh Quảng cáo, Điều 19 Nghị định số 24/2003/NĐ-CP và Thông tư số 43/2003/TT-BVHTT quy định: cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp sau khi có Giấy phép chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ quảng cáo theo quy định của pháp luật, được phép kinh doanh dịch vụ quảng cáo trên mạng Internet. Đối với các cơ quan, tổ chức, doanh


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

nghiệp khi lập trang điện tử (website) trên mạng Internet, chỉ được giới thiệu về hoạt động sản xuất, kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ của mình, không được giới thiệu doanh nghiệp khác và hàng hóa, dịch vụ mà mình không sản xuất, kinh doanh. Đối với sản phẩm quảng cáo thực hiện trên mạng thông tin máy tính thì do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được phép cung cấp dịch vụ Internet chịu trách nhiệm. Những quy định này quá khắt khe và hầu như không có tính khả thi; chính điều đó đã làm mất đi vai trò điều chỉnh của các văn bản pháp luật này.

Để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn, Bộ Thương mại đang tiến hành soạn thảo một thông tư hướng dẫn về quảng cáo thương mại trên các phương tiện điện tử với hy vọng sẽ hỗ trợ doanh nghiệp sử dụng hiệu quả hình thức quảng cáo này, đồng thời hạn chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực của nó. Tuy nhiên, hiện nay dự thảo Thông tư mới chỉ chủ yếu đề cập đến vấn đề gửi thư điện tử và tin nhắn quảng cáo qua điện thoại di động chứ chưa điều chỉnh nhiều vấn đề khác liên quan đến hoạt động quảng cáo trên phương tiện điện tử. Ngoài ra, đây là vấn đề liên quan đến nhiều bộ, ngành khác như Bộ Văn hóa – Thông tin, Bộ Bưu chính Viễn thông, vì thế có nhiều ý kiến cho rằng nên đổi thành thông tư liên bộ hoặc nghị định để tăng hiệu lực thi hành của văn bản này [48].

Pháp luật về quảng cáo của Việt Nam một số bất cập và giải pháp - 8

5. Những hành vi bị nghiêm cấm và xử lý vi phạm trong quảng cáo

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì quảng cáo ngày càng đóng một vai trò quan trọng, không chỉ đối với người sản xuất kinh doanh mà đối với cả người tiêu dùng và xã hội. Chính vì tầm ảnh hưởng rộng của quảng cáo đến công chúng nên nếu quảng cáo không được sử dụng đúng đắn thì sẽ mang lại những kết quả tiêu cực. Để ngăn chặn những tác hại mà quảng cáo có thể gây ra cũng như những hành vi lợi dụng quảng cáo để xâm phạm quyền lợi chính đáng của chủ thể khác trong xã hội, Pháp lệnh Quảng cáo, Luật Thương


mại và các văn bản hướng dẫn thi hành đã nghiêm cấm một số hành vi trong hoạt động quảng cáo, ví dụ như quảng cáo làm tiết lộ bí mật Nhà nước, phương hại đến độc lập, chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh và an toàn xã hội; quảng cáo trái với các nguyên tắc đạo đức, thuần phong mỹ tục của Việt Nam; quảng cáo một số loại hàng hóa, dịch vụ bị cấm hoặc hạn chế kinh doanh; quảng cáo gây tổn hại đến quyền lợi của người tiêu dùng hay nhằm cạnh tranh không lành mạnh…

Đối với những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quảng cáo thì tùy theo tính chất, mức độ mà người vi phạm có thể phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi. Theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Pháp lệnh Quảng cáo, “người nào có hành vi vi phạm pháp luật về quảng cáo thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Điều 168 của Bộ luật Hình sự Việt Nam cũng có quy định về chế tài hình sự đối với hành vi quảng cáo gian dối, theo đó “người nào quảng cáo gian dối về hàng hóa, dịch vụ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”.

Nghiên cứu các quy định của pháp luật thấy còn một số điểm chưa hợp lý như sau: Thứ nhất, đối với quảng cáo rượu, luật pháp không cấm hoàn toàn mà chỉ giới hạn việc quảng cáo trong những điều kiện nhất định phụ thuộc vào nồng độ cồn của rượu. Theo đó, các loại rượu có nồng độ cồn từ 15 độ trở lên bị hạn chế chỉ được quảng cáo “trong phạm vi địa giới doanh nghiệp sản xuất rượu, bên trong các cửa hàng, đại lý tiêu thụ rượu nhưng phải đảm bảo người ở bên ngoài địa giới doanh nghiệp, cửa hàng, đại lý không đọc được, không nghe được,


không thấy được” (điểm 3b Mục II Thông tư số 43/2003/TT-BVHTT). Quy định này khá trừu tượng, vì thế để đánh giá một hành vi có được coi là vi phạm hay không rất khó. Mặt khác khó có thể đảm bảo một quảng cáo mà người ở ngoài hoàn toàn không đọc, không nghe, không thấy được. Do đó mặc dù đã có những quy định của pháp luật nhưng những hành vi vi phạm vẫn thường xuyên xảy ra, ví dụ như tình trạng các cửa hàng rượu bày rượu tràn lan tại nơi kinh doanh để lợi dụng việc kinh doanh vào mục đích quảng cáo. Thứ hai, các quy định về xử lý các hành vi vi phạm trong pháp luật quảng cáo còn khá chung chung, chưa cụ thể. Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự, rất khó để xác định thế nào là quảng cáo gian dối “gây hậu quả nghiêm trọng”. Chính sự không rõ ràng, cụ thể của pháp luật đã dẫn đến việc lúng túng trong quản lý hoạt động quảng cáo của Nhà nước cũng như việc áp dụng các quy định pháp luật của người tiêu dùng và doanh nghiệp. Thứ ba, mức xử phạt hành chính đối với các vi phạm trong lĩnh vực quảng cáo hiện nay còn nhẹ, không đáng kể so với mức chi phí khổng lồ mà các doanh nghiệp bỏ ra để quảng cáo. Thậm chí có doanh nghiệp dù biết là vi phạm nhưng vẫn sẵn sàng nộp phạt. Do đó, với mức xử phạt như thế, dù đã được đặt ra nhưng đôi khi không có tác dụng trong thực tế.

6. Quản lý Nhà nước về hoạt động quảng cáo

6.1. Nội dung quản lý Nhà nước về quảng cáo

Bản chất của quảng cáo là vì mục tiêu lợi nhuận, vì thế, quảng cáo có tác động hai mặt tới xã hội: tốt và xấu. Bên cạnh đó, do nước ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường nên sự phát triển của hoạt động quảng cáo đòi hỏi phải có một hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Điều đó cho thấy sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động quảng cáo là hết sức cần thiết.


Theo quy định tại Điều 28 Pháp lệnh Quảng cáo, nội dung quản lý Nhà nước về quảng cáo bao gồm: xây dựng, chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển quảng cáo; ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quảng cáo; cấp, thu hồi giấy phép thực hiện quảng cáo, giấy phép đặt văn phòng đại diện quảng cáo, chi nhánh quảng cáo của tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo nước ngoài tại Việt Nam; tổ chức, quản lý công tác đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quảng cáo; thực hiện hợp tác quốc tế về quảng cáo; kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về quảng cáo.

Việc tổ chức thực hiện tất cả các nội dung quản lý Nhà nước về quảng cáo như trên sẽ góp phần đẩy mạnh ngành quảng cáo non trẻ của Việt Nam, hướng các tổ chức, cá nhân hoạt động quảng cáo đi đúng hành lang pháp lý. Công tác quản lý Nhà nước về quảng cáo chỉ đạt được hiệu quả khi tiến hành đồng bộ các biện pháp, cách thức, trong đó vai trò của cơ quan quản lý có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên trên thực tế, sự thiếu đồng bộ trong việc phối hợp thực hiện các nội dung quản lý Nhà nước về quảng cáo giữa các cơ quan ở Trung ương với nhau, giữa cơ quan Trung ương và địa phương đã hạn chế đáng kể đến hiệu quả của việc quản lý.

6.2. Thẩm quyền quản lý Nhà nước về quảng cáo

Thẩm quyền quản lý Nhà nước về quảng cáo chính là nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước các cấp từ Trung ương đến địa phương trong lĩnh vực quảng cáo.

Tại Điều 29 Pháp lệnh Quảng cáo quy định: “Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về quảng cáo; Bộ Văn hóa – Thông tin chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về quảng cáo; Bộ Thương mại, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn


của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hóa – Thông tin thực hiện quản lý Nhà nước về quảng cáo; UBND các cấp trong phạm vi quyền hạn của mình thực hiện quản lý Nhà nước về quảng cáo tại địa phương theo phân cấp của Chính phủ”. Như vậy, Bộ Văn hoá - Thông tin là cơ quan được giao trọng trách quản lý hoạt động này và trong thời gian qua cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên phải thấy rằng hoạt động quảng cáo về bản chất của nó là hành vi thương mại, vì thế có những nội dung quản lý sẽ vượt quá chức năng của Bộ Văn hóa – Thông tin. Những bất cập trong hoạt động quảng cáo thời gian qua có liên quan đến công tác quản lý Nhà nước về hoạt động quảng cáo không phải là ít và thậm chí trở ngại ở khâu quản lý rất nhiều. Chẳng hạn như liên quan đến vấn đề quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển quảng cáo có nhiều điều phải bàn. Do không có quy hoạch đặt bảng, biển quảng cáo tại đâu và không dự báo được nhu cầu phát triển của hoạt động này đã xảy ra tình trạng bị động cho cả những người làm công tác quản lý và các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động quảng cáo.

Bên cạnh đó, theo tinh thần của Luật Thương mại 2005 thì Bộ Thương mại sẽ là cơ quan quản lý hoạt động quảng cáo thương mại. Như vậy hiện nay đang có một sự chồng chéo về cơ quan quản lý hoạt động quảng cáo. Ngoài ra, những quy định riêng của UBND các tỉnh, thành phố đối với quảng cáo cũng đang tồn tại nhiều mâu thuẫn với chính bản thân Pháp lệnh Quảng cáo đã làm cản trở sự phát triển của ngành này, mà Quyết định 108/2002/QĐ-UB của UBND Thành phố Hồ Chí Minh là một ví dụ.

6.3. Giấy phép thực hiện quảng cáo

Đối với việc cấp giấy phép thực hiện quảng cáo, hiện nay đa số ý kiến cho rằng cần kiểm soát nội dung thông tin trong hoạt động quảng cáo. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thì cần có cơ chế quản lý phù hợp, hạn chế đến mức thấp nhất các hoạt động quảng cáo phải có giấy phép.


Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam thì chỉ có quảng cáo trên mạng thông tin máy tính; kênh, chương trình phát thanh, truyền hình, phụ trang, phụ bản chuyên quảng cáo (do Bộ Văn hóa – Thông tin cấp) và quảng cáo trên các phương tiện quảng cáo ngoài trời (do Sở Văn hóa – Thông tin cấp) là phải xin giấy phép thực hiện quảng cáo. Về thủ tục cấp giấy phép quảng cáo, tại Điều 19, 20 Nghị định số 24/2003/NĐ-CP và Mục III Thông tư 43/2003/TT-BVHTT đã có những quy định khá cụ thể. Theo đó, tối đa không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ Văn hóa – Thông tin hoặc Sở Văn hóa – Thông tin phải cấp giấy phép thực hiện, nếu không cấp giấy phép thì phải trả lời bằng văn bản nêu rõ lý do. Nhằm giảm bớt những thủ tục rườm rà và hạn chế tiêu cực trong hoạt động cấp giấy phép quảng cáo, Thông tư số 79/2005/TT-BVHTT sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 43/2003/TT-BVHTT đã bãi bỏ một số giấy tờ không phù hợp, cần thiết trong hồ sơ xin phép quảng cáo như văn bản thẩm định của cơ quan có thẩm quyền về xây dựng đối với các phương tiện quảng cáo ngoài trời mà pháp luật về xây dựng quy định phải thẩm định về kết cấu xây dựng.

Như vậy theo quy định của pháp luật, để xin giấy phép quảng cáo, doanh nghiệp chỉ phải qua một cửa duy nhất là Bộ hoặc Sở Văn hóa – Thông tin. Tuy nhiên, việc xin giấy phép, đặc biệt đối với quảng cáo ngoài trời, đang gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, mà phần lớn do quy định không thống nhất ở mỗi địa phương. Ví dụ ở Thành phố Hồ Chí Minh, việc xin giấy phép phải qua rất nhiều nơi như phường, quận, sở, thậm chí có khi phải lên tới cấp thành phố. Còn ở Bình Thuận, doanh nghiệp phải xin giấy phép cả Sở Giao thông Công chính và cơ quan điện lực [39]. Chính những quy định không rõ ràng, thống nhất, thiếu những quy chuẩn như thế đã dẫn tới kết quả là tiêu cực, là tỷ lệ cao các trường hợp “vi phạm quy định của pháp luật”.

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 07/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí