tính khả thi và hiệu quả của pháp luật. Phù hợp với các quy luật và điều kiện kinh tế - xã hội sẽ làm cho pháp luật dễ dàng được thực hiện, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế - xã hội, trường hợp ngược lại, pháp luật khó được thực hiện trên thực tế, thậm chí có thể cản trở hoặc gây ra những thiệt hại nhất định cho sự phát triển đó.
Trước hết các quy định pháp luật về quảng cáo phải vừa phản ánh được những quy luật kinh tế chung vừa phản ánh được những quy luật kinh tế đặc thù của phương thức sản xuất tồn tại trong đất nước. Nó phải tạo ra được những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh, bền vững của kinh tế đất nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Tiếp đến là sự phù hợp của pháp luật về quảng cáo với điều kiện chính trị của đất nước, mà quan trọng nhất là phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng. Để bảo đảm cho xã hội phát triển ổn định thì đòi hỏi pháp luật phải quy định một cách hài hoà về lợi ích cơ bản của tất cả các lực lượng chủ yếu trong xã hội sao cho có thể chấp nhận được. Vì vậy, nội dung của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo phải quy định sao cho tương quan giữa các loại lợi ích của các tầng lớp xã hội khác nhau có được sự hài hoà. Dưới hình thức pháp lý, trong khuôn khổ các văn bản pháp luật, nhà làm luật phải làm sao cho lợi ích hợp pháp của tầng lớp xã hội này không xung đột với lợi ích của các tầng lớp khác. Chỉ trong những điều kiện như vậy mới bảo đảm được sự phát triển bình thường của các quan hệ xã hội và việc thực hiện các quyền, tự do, lợi ích của tầng lớp xã hội này sẽ không làm tổn hại đến tự do, lợi ích của các tầng lớp khác. Nếu không quan tâm tới sự thống nhất, hài hoà giữa các loại lợi ích của các lực lượng khác nhau trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật có thể dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội, chẳng những không phát huy được vai trò của pháp luật mà còn làm lu mờ bản chất tốt đẹp của pháp luật dưới chế độ xã hội chúng ta.
Không chỉ phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước hệ thống pháp luật về quảng cáo nước ta còn phải phù hợp với pháp luật quốc tế. Trong xu hướng hội nhập và hợp tác hiện nay, vấn đề này luôn đòi hỏi phải được chú
trọng và trong những giới hạn có thể hệ thống pháp luật quốc gia cần phải phù hợp với các công ước, điều ước và thông lệ quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia. Hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo nước ta phải được xây dựng phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các điều ước và thông lệ quốc tế, tiếp thu và sử dụng có hiệu quả lý luận, kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của các nước khác trên thế giới.
Phương pháp điều chỉnh pháp luật được sử dụng phù hợp cho mỗi loại quan hệ xã hội. Chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo còn biểu hiện ở việc lựa chọn phương pháp điều chỉnh pháp luật phù hợp cho mỗi loại quan hệ xã hội. Việc lựa chọn phương pháp điều chỉnh pháp luật phụ thuộc vào nội dung, tính chất của các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh và ý muốn chủ quan của nhà làm luật thông qua sự nhận thức, sự tính toán của họ về những lĩnh vực, những vấn đề cần điều chỉnh pháp luật trong mỗi giai đoạn lịch sử của sự phát triển xã hội. Sự lựa chọn phương pháp điều chỉnh pháp luật không đúng, không phù hợp sẽ làm mất đi hoặc giảm đi tính hiệu quả của pháp luật, bởi khi đó sẽ không đạt được mục đích mong muốn hoặc chỉ đạt được ở mức độ thấp. Chẳng hạn, để giải quyết những tranh chấp, xử lý những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai có thể bằng thủ tục hành chính và cũng có thể bằng thủ tục tư pháp, vì vậy đòi hỏi phải chọn phương pháp nào và giao cho cơ quan nào giải quyết thì phù hợp hơn, có hiệu quả cao hơn.
* Trình độ kỹ thuật pháp lý khi xây dựng pháp luật
Đó là tổng thể những phương pháp, phương tiện được sử dụng trong quá trình soạn thảo và hệ thống hoá pháp luật quảng cáo nhằm đảm bảo cho pháp luật về quảng cáo có được đầy đủ các khả năng để điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội. Điều này đòi hỏi: Khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quảng cáo phải đưa ra được những nguyên tắc, những trình tự thủ tục tối ưu để tiến hành có hiệu quả quá trình đó nhằm tạo ra được những quy định, những văn bản pháp luật tốt nhất, đồng thời phù hợp với các quy định đã có; xác định chính xác, khoa học cơ cấu của hệ thống pháp luật phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản phải chính xác, phổ
Có thể bạn quan tâm!
- Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình - 1
- Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình - 2
- Chủ Thể, Nội Dung Thực Hiện Pháp Luật Về Quảng Cáo Ngoài Trời
- Năng Lực Quản Lý Của Cơ Quan Quản Lý Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Quảng Cáo
- Khái Quát Về Thành Phố Tam Điệp, Tỉnh Ninh Bình
- Quy Định Của Pháp Luật Về Quảng Cáo Ngoài Trời
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu, đảm bảo tính cô đọng, lôgíc và một nghĩa. Đối với những thuật ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội dung đều được giải thích trong văn bản.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quảng cáo phải thường xuyên sử dụng các phương tiện, các cách tiếp cận, các kỹ thuật pháp lý, các quy tắc pháp lý tiên tiến khoa học nhất đã đạt được của nhân loại trong lĩnh vực điều chỉnh pháp luật. Nội dung các quy phạm pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng với một trình độ kỹ thuật pháp lý cao có kết cấu chặt chẽ, lôgíc, các thuật ngữ pháp lý được sử dụng chính xác, một nghĩa, lời văn trong sáng, ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với khả năng nhận thức của quảng đại quần chúng nhân dân. “Một quy phạm pháp luật sẽ phát huy được hiệu quả cao hơn nếu phù hợp với quan niệm, ý thức hiện có của công dân và ngược lại”. Sự chặt chẽ, rõ ràng, chính xác của các quy phạm pháp luật về quảng cáo cũng giúp tránh được những thiếu sót, sơ hở có thể bị lợi dụng trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật. Để có chất lượng các văn bản pháp luật phải được xây dựng đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục luật định, có tên gọi phù hợp với nội dung thể hiện, hình thức rõ ràng, dễ thực hiện.
* Tính khả thi của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo
Một hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo có chất lượng thì phải bảo đảm tính khả thi, nghĩa là các quy định pháp luật phải có khả năng thực hiện được trong điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội hiện tại. Điều này đòi hỏi các quy định pháp luật về quảng cáo phải được ban hành phù hợp với trình độ phát triển của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển nhất định. Nếu các quy định pháp luật về quảng cáo được ban hành quá cao hoặc quá thấp so với các điều kiện phát triển của đất nước thì đều có ảnh hưởng đến chất lượng của pháp luật quảng cáo. Trong những trường hợp đó hoặc là pháp luật quảng cáo không có khả năng thực hiện được hoặc là được thực hiện không triệt để, không nghiêm, không phát huy hết vai trò tác dụng của nó trong đời sống xã hội.
Tính khả thi của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo còn thể hiện ở việc các quy định pháp luật phải được ban hành đúng lúc, kịp thời đáp ứng
những nhu cầu mà cuộc sống đang đặt ra, đồng thời phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Khi ban hành văn bản pháp luật phải xem xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện được quy định hoặc văn bản pháp luật đó hay không, đồng thời phải tính đến các điều kiện khác như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức có cho phép thực hiện được không, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận quy định hoặc văn bản pháp luật đó (ủng hộ hay không ủng hộ), trình độ văn hoá và kiến thức pháp lý của nhân dân... Pháp luật về quảng cáo có chất lượng phải là pháp luật đưa ra được phương án tốt nhất với phương pháp điều chỉnh pháp luật phù hợp nhất để thông qua đó có thể đạt được mục đích mong muốn trong những điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại.
1.3.2. Ý thức pháp luật của các chủ thể thực hiện pháp luật về quảng cáo
Ý thức pháp luật về quảng cáo là những tri thức, quan điểm, quan niệm ... về pháp luật quảng cáo biểu hiện qua sự nhận thức, tình cảm, thái độ của các chủ thể trong xã hội con người với pháp luật quảng cáo.
Ý thức pháp luật chính là yếu tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật về quảng cáo trong thực tế: Các chủ doanh nghiệp, hộ kinh doanh, các cá nhân thực hiện pháp luật về quảng cáo thông qua sự hiểu biết, nắm vững các quy định, có thái độ thế nào đối với các quy định về quảng cáo. Nếu họ tôn trọng pháp luật tức là họ chấp hành đúng và đầy đủ các quy định về quảng cáo, và ngược lại nếu vi phạm các quy định của pháp luật nghĩa là họ thiếu tôn trọng pháp luật.
Nếu mọi người trong xã hội đều có ý thức pháp luật cao, tức là đều hiểu biết đúng đắn yêu cầu của các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động quảng cáo của mình, đều có thái độ tôn trọng, ủng hộ các quy định đó nên luôn luôn có các hành vi hợp pháp thì pháp luật về quảng cáo sẽ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và tự giác hơn. Từ đó các chủ thể có thẩm quyền không phải ban hành quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc liên quan đến quảng cáo.
1.3.3. Mức độ phát triển kinh tế, văn hóa - đời sống
* Sự phát triển kinh tế xã hội
Yếu tố kinh tế bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh về kinh tế - xã hội, hệ thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội và việc triển khai thực hiện, áp dụng chúng trong thực tế xã hội. Nền kinh tế - xã hội phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực hiện pháp luật, tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật của các tầng lớp xã hội. Ngược lại, nền kinh tế - xã hội chậm phát triển, kém năng động và hiệu quả sẽ có thể ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Yếu tố kinh tế là nền tảng của sự nhận thức, hiểu biết pháp luật và thực hiện pháp luật nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật.
Quá trình thực hiện pháp luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nước ta là một nước đang phát triển, trình độ kinh tế xã hội ở mỗi vùng miền là khác nhau, do đó cũng ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện pháp luật. Kinh tế có phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp dân cư được cải thiện, lợi ích kinh tế được đảm bảo thì nhân dân sẽ phấn khởi, tin tưởng vào đường lối kinh tế, chính sách pháp luật, sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động điều hành, quản lý của Nhà nước. Khi đó, niềm tin của các chủ thể đối với pháp luật được củng cố, hoạt động thực hiện pháp luật sẽ mang tính tích cực, thuận chiều, phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật hiện hành.
Khi kinh tế phát triển, đời sống tinh thần, vật chất được cải thiện, các cán bộ, công chức Nhà nước, các tầng lớp nhân dân có điều kiện mua sắm các phương tiện nghe, nhìn, có điều kiện thỏa mãn các nhu cầu thông tin pháp luật đa dạng và cập nhật. Các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ dễ dàng đến được với đông đảo cán bộ và nhân dân; nhu cầu tìm hiểu, trang bị thông tin, kiến thức pháp luật trở thành nhu cầu tự giác, thường trực trong suy nghĩ và hành động của họ. Điều đó giúp cho hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể mang tính tự giác, tích cực.
Còn khi kinh tế chậm phát triển, thu nhập thấp, tình trạng thất nghiệp gia tăng, lợi ích kinh tế không được đảm bảo, đời sống của cán bộ, nhân dân gặp khó khăn thì tư tưởng sẽ diễn biến phức tạp, cái xấu có cơ hội nảy sinh, tác động tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật. Đây chính là mảnh đất lý tưởng cho sự xuất
hiện các loại hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược lại các giá trị, chuẩn mực pháp luật như tệ quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu, tham nhũng trong cán bộ; buôn lậu, trốn thuế; trộm cắp, cướp giật, lừa đảo…trong các thành phần xã hội khác.
Cơ chế kinh tế cũng có ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật. Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trước đây đã tạo ra tâm lý thụ động, ỷ lại. Do đó nhận thức pháp luật và hoạt động thực hiện pháp luật thường mang tính phiến diện, một chiều theo kiểu mệnh lệnh - phục tùng. Cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay với những mặt tích cực của nó sẽ tạo ra tư duy năng động, sáng tạo, coi trọng uy tín, chất lượng, hiệu quả của hoạt động kinh tế. Từ đó tác động tích cực hơn tới ý thức pháp luật và hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt và tiêu dùng. Nhưng mặt trái của tâm lý thị trường sẽ tạo ra tâm lý sùng bái đồng tiền, coi tiền là tất cả, bất chấp các giá trị đạo đức, pháp luật đồng thời sẽ tạo ra những quan niệm, hành vi sai lệch trong thực hiện pháp luật, lấy đồng tiền làm thước đo đánh giá các quan hệ giữa người với người. Đây là nguyên nhân phát sinh các hành vi trái pháp luật, là môi trường cho các loại tội phạm nảy sinh và phát triển.
Việc thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo các nguyên tắc công bằng xã hội là điều kiện cần thiết cho sự ổn định chính trị, tăng cường pháp chế và đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội; củng cố ý thức của con người về cái chung trong các lợi ích, lý tưởng của họ, khơi dậy thái độ tích cực của quần chúng đối với việc tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật; nhờ đó ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật cũng được nâng lên một bước và việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trở nên tự giác và chủ động hơn.
* Yếu tố văn hóa - đời sống
Các yếu tố văn hóa - đời sống bao giờ cũng thuộc về một môi trường văn hóa xã hội nhất định gắn liền với một phạm vi không gian xã hội nhất định, nơi các cá nhân và cộng đồng người tổ chức các hoạt động sống, sinh hoạt, cùng nhau tạo dựng, thừa nhận và chia sẻ các giá trị văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, lễ nghi… Với những mặt, những khía cạnh biểu hiện của mình, các yếu tố
văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động thực hiện pháp luật, thể hiện trên các điểm sau:
Các phong tục tập quán trong cộng đồng xã hội có ảnh hưởng nhất định tới hoạt động thực hiện pháp luật của các tầng lớp nhân dân, thể hiện đặc biệt rõ nét ở khu vực nông thôn. Bên cạnh những ưu điểm rất căn bản, các phong tục tập quán ở nông thôn cũng đang bộc lộ những nhược điểm nhất định như việc tổ chức hội hè, đình đám, ma chay, giỗ chạp nhiều lúc nhiều nơi còn cồng kềnh, tốn kém và lãng phí; những hủ tục lạc hậu, lỗi thời còn tồn tại; trình độ dân trí còn thấp; thói hư tật xấu và tệ nạn xã hội phát sinh; tính tích cực chính trị - xã hội của người dân còn hạn chế…
Tại một số làng xã, chính quyền và người dân đứng ra tổ chức lễ hội ồn ào, kéo dài, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt, bán vé và thu phí sai nguyên tắc tài chính, sự chỉ đạo thiếu sâu sát, để cho một số người lợi dụng lễ hội để hành nghề mê tín dị đoan. Trong khi một số thói hư tật xấu và tệ nạn xã hội như nạn cờ bạc, số đề, tín dụng đen, mê tín dị đoan, mại dâm…đang xâm nhập vào nông thôn, thì có những người, thay vì tích cực đấu tranh, ngăn chặn, phòng ngừa lại tiếp tay hoặc trực tiếp tham gia vào những thói xấu đó. Những hiện tượng trên đây gây khó khăn cho việc thực hiện đúng đắn pháp luật, đồng thời là những hành vi vi phạm pháp luật, coi thường kỷ cương, phép nước, cần phải có biện pháp xử lý nghiêm minh, thích đáng.
Lối sống đô thị và lối sống nông thôn có ảnh hưởng khác nhau tới hoạt động thực hiện pháp luật. Đặc trưng nổi bật của lối sống đô thị là tích cực chính trị - xã hội ở đô thị cao. Cư dân đô thị có nhiều điều kiện tiếp xúc với các thông tin chính trị - xã hội và tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội lớn mà phần nhiều được tổ chức tại các đô thị. Các phong trào có sức huy động quần chúng ở các đô thị thường diễn ra nhanh hơn so với ở nông thôn. Đây cũng là điều dễ hiểu vì đô thị thường là nơi tập trung nhiều thành phần xã hội có trình độ học vấn tương đối cao.
Tại các thành phố, phạm vi giao tiếp về xã hội cơ bản tương đối rộng, cường độ giao tiếp cao và mang tính ẩn danh trong giao tiếp. Đây là điều kiện
thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật và các hình thức thực hiện pháp luật. Mặt khác, đô thị là nơi tập trung phần lớn bộ phận không thể thiếu trong dân cư đô thị thường được gọi dưới cái tên “những phần tử ngoài lề xã hội”. Về phương diện xã hội, đây là môi trường phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm nhiều tới mức đáng báo động, gây khó khăn cho công tác quản lý xã hội và hoạt động thực thi, bảo vệ pháp luật.
Lối sống nông thôn là lối sống mang tính cộng đồng rất cao và rất chặt chẽ, liên kết cả thành viên trong làng xã lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác. Điều đó thể hiện ở mối quan hệ gắn bó, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ, lối xóm ở nông thôn. Người dân nông thôn thường sống đoàn kết gắn bó với quê hương làng xóm, rất coi trọng tình làng nghĩa xóm. Đây là một biểu hiện rất riêng, rất đặc thù của lối sống nông thôn Việt.
Tính cộng đồng được coi là điều kiện thuận lợi đối với hoạt động thực hiện pháp luật. Bằng ý thức cộng đồng, nó giúp cho các cán bộ pháp luật dễ dàng hơn trong việc phổ biến, tuyên truyền và thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đông đảo người dân nông thôn. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết giúp cho các cơ quan hành chính, tư pháp hoàn thành tốt các nhiệm vụ thực thi và bảo vệ pháp luật. Khi truyền thống làng xã được phát huy, người dân cởi mở, thẳng thắn tham gia ý kiến về những cái được và cái chưa được trong hoạt động thực hiện pháp luật.
Sự đề cao tính cộng đồng và chủ nghĩa tập thể dễ dẫn cán bộ làm công tác thực thi và bảo vệ pháp luật đến việc đánh mất ý thức về con người cá nhân, cái tôi bị triệt tiêu, ý thức cá nhân và hành vi cá nhân cũng bị đặt vào lối xử thế hòa cả làng. Tình trạng này khiến cho cán bộ cả nước khi phải đối mặt với những việc làm sai trái, khuyết điểm, thậm chí vi phạm pháp luật, thì họ thường tìm cách né tránh trách nhiệm cá nhân và muốn đó là trách nhiệm tập thể.
Bên cạnh đó tính cộng đồng thường là cái cớ được cán bộ làm công tác thực thi và bảo vệ pháp luật dùng để biện minh cho thói quen ỷ lại vào tập thể và tâm lý an phận thủ thường. Chính điều này làm hạn chế năng lực sáng tạo, sự