mua lại, sáp nhập thì cần phải có lộ trình nhất định để NHTM sau mua lại, nhận sáp nhập có thể thực hiện được, nhất là thực hiện theo các quy định tại Điều 55, Luật các TCTD, về chuẩn mực an toàn vốn Basel II và hướng tới Basel III, các yêu cầu quản trị của Ngân hàng Thế giới. Cụ thể, trong khoảng thời gian 12 tháng kể từ Ngày chấp thuận mua lại, sáp nhập có hiệu lực, NHTM phải đáp ứng quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD. Mọi TCTD không phân biệt thành phần sở hữu, phải đạt chuẩn an toàn hoạt động theo qui định tại Chương 6 - Luật các TCTD 2010 (từ Điều 130 đến 135) và tham khảo thêm các tiêu chí của Basel II và tương lai gần là Basel III. Theo đó, khuyến khích các TCTD chưa đạt chuẩn cần tìm đối tác để tự nguyện thực hiện mua lại, sáp nhập để đạt và vượt chuẩn. NHTM sau mua lại, sáp nhập phải thoái vốn nếu vi phạm những giới hạn góp vốn, mua cổ phần được Luật các TCTD quy định. Sau mua lại, sáp nhập phải xử lý để hạn chế sự chi phối, thao túng của cổ đông lớn đối với ngân hàng; Kiên quyết xử lý đối với các cổ đông lớn, người có liên quan vi phạm quy định về giới hạn sở hữu cổ phần tại NHTMCP và các TCTD sở hữu vốn chéo lẫn nhau. Cổ đông, nhà đầu tư, ngân hàng vi phạm quy định về góp vốn, mua, sở hữu vốn, cổ phần phải được xử lý theo quy định của pháp luật.
Bảy là, bổ sung quy định về cơ quan giám sát khi mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.
Theo quy định của Luật NHNN, NHNN có chức năng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối, thực hiện nhiệm vụ quyền hạn kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ này, trong cơ cấu tổ chức của NHNN đã quy định chức năng, nhiệm vụ của các Cục, vụ về thanh tra, giám sát ngân hàng, đặc biệt NHNN thành lập cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng tương đương cấp Tổng cục để thực hiện nhiệm vụ chuyên biệt này. Tuy nhiên, việc NHNN được giao quyền hạn khi quản lý hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM, đồng thời lại tổ chức việc thanh tra, giám sát trong quá trình thực hiện có thể không khách quan, trong khi hoạt động NHTM có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế, cần đảm bảo hoạt động được diễn ra theo đúng quy định của pháp luật. Cơ quan nhà nước phải có biện pháp giám sát, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động mua lại, sáp nhập. Vì vậy pháp luật cần bổ sung quy định một cơ quan sẽ giám sát độc lập tiến trình này. Đại biểu Quốc hội
Trương Trọng Nghĩa đã đề nghị tại phiên thảo luận tổ của Quốc hội cho rằng, nếu lấy tiền ngân sách để mua lại thì liên quan đến Quốc hội, và “Quốc hội nên có giám sát, không nên để cho ngân hàng một mình tự quyết định mọi thứ, ít nhất có thể thành lập Ủy ban lâm thời giám sát toàn bộ việc mua lại với giá 0 đồng này”, đồng thời đề nghị: “Khi nào thì mua, ngân hàng như thế nào thì mua, ít nhất là Quốc hội phải giám sát được” [4]. Cơ quan giám sát hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM đề xuất có thể thuộc một trong các cơ quan như Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia hoặc một cơ quan độc lập do Quốc hội thành lập.
Tám là, quy định chặt chẽ về công bố thông tin khi mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.
Pháp luật đã có quy định về việc công bố thông tin của tổ chức niêm yết, thông tin công bố của NHNN, của TCTD... Tuy nhiên trên thực tế, việc công bố thông tin còn nhiều hạn chế và không kịp thời nhất là trong thời gian gần đây NHNN thực hiện mua lại, sáp nhập bắt buộc một số NHTM yếu kém. Do đó việc công bố thông tin này phải được quy định về nguyên tắc trong luật và quy định chi tiết tại Nghị định của Chính phủ. Điều này có ý nghĩa quan trọng, buộc các bên phải chấp hành đúng quy định về công bố thông tin, đảm bảo cho các bên liên quan, người dân hiểu rằng pháp luật đang được thực hiện một cách công khai, minh bạch, không vụ lợi. Khoản 4, Ðiều 8, Thông tư 04/2010/TT-NHNN yêu cầu hợp đồng mua lại, sáp nhập phải được gửi đến các chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được Thống đốc NHNN chấp thuận nguyên tắc. Song đối với các NHTM thì yêu cầu này khó thực hiện trên thực tế vì chủ nợ của một ngân hàng có thể đến hàng chục nghìn cá nhân, tổ chức ở trong nước và ngoài nước. Ngoài ra, hợp đồng mua lại, sáp nhận có thể có điều khoản ràng buộc về nghĩa vụ bảo mật thông tin giữa các bên, nên không nhất thiết phải công bố toàn bộ nội dung hợp đồng mua lại, sáp nhập bằng cách sao chụp để gửi cho các chủ nợ. Ðiều này làm phát sinh các chi phí không cần thiết, tốn nhiều thời gian, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người lao động, các cổ đông và không phù hợp với thực tế. Vì vậy bổ sung, sửa đổi quy định này theo hướng chỉ cần công bố một số thông tin cơ bản của giao dịch trên Cổng thông tin điện tử của NHNN, trang thông tin chính thức của NHTM, đồng thời hợp đồng mua bán, sáp nhập chỉ cần được gửi đến các chủ nợ lớn.
Quy định về công bố thông tin cần đáp ứng được yêu cầu thực tế, nguyện vọng chính đáng các chủ nợ, tổ chức, cá nhân có quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại với ngân hàng tham gia mua lại, sáp nhập như giá trị giao dịch, giá mua, thời hạn dự kiến hoàn thành giao dịch, vốn chủ sở hữu được một công ty kiểm toán xác nhận tại thời điểm có quyết định chấp thuận nguyên tắc, quyết định chấp thuận chính thức của Thống đốc NHNN.
Chín là, quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại trong nước, đặc biệt khi xử lý ngân hàng thương mại yếu kém phục vụ mục tiêu tái cơ cấu ngân hàng.
Cần nâng tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các NHTM Việt Nam để trở thành nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư chiến lược tại các NHTM Việt Nam. Đặc biệt, cần nhấn mạnh việc xem xét, cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua lại hoặc sáp nhập với các TCTD yếu kém của Việt Nam và tiến tới tăng giới hạn sở hữu cổ phần của họ tại các ngân hàng được cơ cấu lại. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang rất cần bổ sung một nguồn vốn ngoại cho hệ thống ngân hàng, nhằm đáp ứng tiêu chuẩn của Basel III. Thực tế, có nhiều TCTD nước ngoài đã mua cổ phần của NHTM Việt Nam với tỷ lệ sở hữu từ 15% - 20% vốn điều lệ và trở thành cổ đông chiến lược nước ngoài của NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, do tỷ lệ sở hữu cổ phần chiếm tỷ lệ thấp so với phần còn lại, nên tiếng nói của người đại điện do nhà đầu tư nước ngoài cử tham gia Hội đồng quản trị hoặc/và Ban điều hành không gây được ảnh hưởng lớn để nâng cao năng lực quản trị, điều hành của NHTM Việt Nam. Do đó, hiệu quả kinh doanh ở một số TCTD Việt Nam có cổ đông chiến lược nước ngoài đã không mang lại kết quả như mong đợi.
Mười là, hoàn thiện các quy định của pháp luật để bảo vệ người gửi tiền khi ngân hàng thương mại bị mua lại, sáp nhập.
Có thể bạn quan tâm!
- Về Giải Quyết Tranh Chấp Khi Mua Lại, Sáp Nhập Ngân Hàng Thương Mại
- Phương Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Mua Lại, Sáp Nhập Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam
- Hoàn Thiện Pháp Luật Về Mua Lại, Sáp Nhập Ngân Hàng Thương Mại Đáp Ứng Các Yêu Cầu Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay - 20
- Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay - 21
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
Tái cơ cấu nền kinh tế, tái cấu trúc hệ thống NHTM là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Khi thực hiện tái cấu trúc hệ thống NHTM rất cần nguồn lực, thời gian để thực hiện và đặc biệt là phải đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, tài chính, tiền tệ quốc gia, không gây mất ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội. Bảo vệ người gửi tiền khi NHTM bị mua lại, sáp nhập có ý nghĩa rất quan trọng để đáp ứng các mục tiêu trên. Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi cần nâng mức bảo hiểm tiền gửi. Các quy định của pháp luật quy định chặt chẽ và mạnh mẽ hơn đối với yêu cầu bảo vệ người gửi tiền. Khi đó hệ thống pháp luật cần đồng bộ để
quy định vấn đề này chứ không dừng ở những quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi.
4.2.2. Nhóm giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập
Để thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM một cách hiệu quả, một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật được kiến nghị như sau:
Một là, đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát của Ngân hàng nhà nước.
Trong thời gian qua, tổ chức và hoạt động của cơ quan Thanh tra, giám sát ngành ngân hàng đã được củng cố và hoàn thiện. Ngày 7/4/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 26/2014/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành ngân hàng. Nghị định được nhìn nhận là trao thêm quyền lực, nhưng cũng là áp lực để Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng hoàn thành trọng trách của nhà nước giao phó. Nghị định số 26/2014/NĐ-CP đã thể hiện sự đổi mới căn bản về mô hình tổ chức thanh tra trong NHNN theo hướng bảo đảm nguyên tắc tập trung, thống nhất trong chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ từ Trung ương đến địa phương. Điều này cũng phù hợp với xu hướng tập trung hóa quản trị, điều hành về trụ sở chính của các TCTD trong thời gian gần đây, từ đó tạo khuôn khổ pháp lý về tổ chức, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ có tính đặc thù của thanh tra, giám sát ngành ngân hàng. Tuy nhiên, Nghị định mới chỉ quy định riêng về hoạt động của thanh tra, giám sát ngân hàng. Vì thế cần có những văn bản hướng dẫn của NHNN hoặc những văn bản liên ngành quy định cụ thể hơn về việc phối hợp giữa thanh tra, giám sát ngân hàng và các cơ quan thanh tra, giám sát khác trong việc chia sẻ thông tin, kết quả có được từ các đợt thanh tra, kiểm tra, giám sát. Điều này nhằm đảm bảo hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời tránh gây ra những áp lực và phiền hà cho đối tượng được thanh tra, giám sát.
Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm củng cố, chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật thị trường và đánh giá, nhận diện những vấn đề của hệ thống và từng TCTD để có biện pháp tái cấu trúc, đáp ứng yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, hỗ trợ tích cực hơn cho việc triển khai mạnh mẽ các giải pháp xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các TCTD. Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng cần đẩy mạnh nhằm phát hiện, xử lý những rủi ro, vi phạm pháp luật, đánh giá chất lượng tín dụng và hoạt động của các TCTD, trong đó có việc thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM.
Công tác thanh tra, giám sát cần phát hiện những tồn tại, hạn chế, rủi ro tiềm
ẩn và vi phạm ở nhiều TCTD như vi phạm quy định về các giới hạn, chuẩn mực an toàn, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro; vi phạm và rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng, góp vốn, mua cổ phần, đầu tư tài chính, huy động vốn, chất lượng tài sản thấp, nợ xấu lớn, tình hình tài chính kém lành mạnh... Từ đó có những giải pháp phù hợp để thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, nhất là việc xử lý những NHTM yếu kém, không có khả năng tự cơ cấu, cần có sự can thiệp của nhà nước thông qua mua lại, sáp nhập bắt buộc.
Phát hiện và xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật của các NHTM trong quá trình thực hiện mua lại, sáp nhập như che giấu nợ xấu, không công bố thông tin kịp thời, tẩu tán tài sản khi thực hiện mua lại, sáp nhập… Nếu những vụ việc có dấu hiệu hình sự cần chuyển cho cơ quan điều tra để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật. Công tác giám sát cần được đẩy mạnh nhằm phòng ngừa, phát hiện sớm các rủi ro, nguy cơ, dấu hiệu vi phạm, xu hướng, diễn biến bất lợi để có cảnh báo và biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời. Tập trung thanh tra, giám sát để phát hiện những yếu kém, tồn tại của các NHTM được xử lý dứt điểm, đặc biệt là NHTM yếu kém được áp dụng các biện pháp can thiệp mạnh mẽ của NHNN như được đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt và buộc mua lại, sáp nhập, đáp ứng thực hiện đúng mục tiêu, lộ trình đã đặt ra tại Đề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2011-2015 theo quy định tại Quyết định số 254/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 01/3/2012.
Hai là, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng và mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng và mua lại, sáp nhập NHTM, chú trọng xây dựng, hoàn thiện cơ chế phối hợp, giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này một cách chặt chẽ. Một trong những đặc điểm của pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM chính là sự đa dạng của pháp luật điều chỉnh dưới từng khía cạnh, góc độ, phù hợp với bản chất quan hệ của pháp luật cần điều chỉnh. Vì thế để quản lý hoạt động này, tùy theo chức năng, nhiệm vụ được giao, pháp luật quy định nhiều cơ quan cùng tham gia như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.... Do đó việc xây dựng cơ chế phối hợp, giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng và mua lại, sáp nhập NHTM là hết sức cần thiết. Cần có kế hoạch nâng cao năng lực cán bộ ở những vị trí quan trọng
trong quá trình thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM tại Cục quản lý cạnh tranh, các vụ, cục thuộc NHNN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước... Cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật về ngân hàng ở trong và ngoài nước kịp thời đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao quản lý và thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM.
Ba là, tăng cường và đổi mới nội dung công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, cung cấp kiến thức về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.
Hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp đã trở nên quen thuộc và được thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, hoạt động này bắt đầu chưa lâu nhưng ngày càng trở nên sôi động tuy rằng những hiểu biết hiện tại về mua lại, sáp nhập còn hạn chế. Pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM mới được xây dựng nhưng đã được bổ sung, hoàn thiện trong thời gian gần đây. Trên thực tế, nếu muốn tiến hành mua lại, sáp nhập, các ngân hàng phải tự mình “dò dẫm” đường đi và tự tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm từ các thương vụ mua lại, sáp nhập ngân hàng đã thực hiện. Vì thế cần tăng cường và đổi mới nội dung công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, cung cấp kiến thức về mua lại, sáp nhập NHTM.
Giải pháp về tăng cường và đổi mới nội dung công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, cung cấp kiến thức về mua lại, sáp nhập NHTM bao gồm các nội dung chính như: Tổ chức thực hiện tốt phổ biến, giáo dục pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM. Ngoài việc các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật thì cơ quan đầu mối là NHNN cần thực hiện việc này hiệu quả hơn nữa. Các nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cần nhấn mạnh và đề cập rõ hơn những nội dung điều chỉnh chủ yếu của pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM. Bên cạnh các quy định của pháp luật, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật còn bao gồm ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM. Đa dạng hóa hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM thông qua báo chí, biên soạn, phát hành tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật, thông qua hoạt động tìm hiểu pháp luật, các câu lạc bộ pháp luật, hoạt động trợ giúp pháp lý… Ngoài ra cần cung cấp kiến thức về mua lại, sáp nhập NHTM cho các NHTM, cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm quản lý, thực thi pháp luật trong lĩnh vực này.
Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật về
mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.
Công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM cần được triển khai đầy đủ các nội dung, cụ thể là xem xét, đánh giá tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết; xem xét, đánh giá tình hình bảo đảm các điều kiện thi hành pháp luật và xem xét, đánh giá tình hình tuân thủ pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM. Việc đánh giá tình hình tuân thủ pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM có thể đánh giá dựa trên các thông số như: tỷ lệ vi phạm pháp luật; thời gian giải quyết hồ sơ, yêu cầu của NHTM; các loại giấy tờ trên thực tế mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu so với quy định của pháp luật hiện hành; tình hình niêm yết công khai hồ sơ, thủ tục… Sau khi có kết quả theo dõi, các bộ, ngành, địa phương cần tổng hợp, xử lý kịp thời vướng mắc, đồng thời kiến nghị để hoàn thiện pháp luật. Cơ chế tổ chức thực thi pháp luật phải rất cụ thể, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao. Trong quá trình tổ chức thực hiện phải chú ý đến tình hình thực tế của địa phương được lựa chọn để kiểm tra, khảo sát, thu thập thông tin.
Kết luận chương 4
1. Ngoài việc cần đáp ứng các yêu cầu chung trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, phương hướng hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay được xác định dựa trên một số yêu cầu chính là đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp; đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại; đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế trị trường và đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Khi hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay cần đảm bảo nguyên tắc không để xảy ra đổ vỡ, mất an toàn hệ thống ngân hàng, đảm bảo an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia; đáp ứng yêu cầu về tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu quả trong hệ thống pháp luật, phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia là thành viên; tạo môi trường thuận lợi, ổn định cho hoạt động mua lại, sáp nhập và tổ chức lại doanh nghiệp; đồng thời khung pháp lý về mua lại, sáp nhập ngân hàng cần được xây dựng chuyên biệt, vừa mang tính áp dụng thực tiễn, vừa có tính dự liệu cao. Để đảm bảo sự chặt chẽ và mang tính khách quan, pháp luật cần bổ sung việc quy định một cơ quan giám sát độc lập quá trình mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại bên cạnh chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật được đề xuất, kiến nghị bao gồm những nội dung cụ thể hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng thương mại, các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. Các giải pháp này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gắn với đổi mới tư duy hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. Thông qua phương hướng và các giải pháp đề xuất, kiến nghị sẽ giúp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại, giúp các ngân hàng phát triển an toàn, hiệu quả, vững chắc sau khi mua lại, sáp nhập, đồng thời đáp ứng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể sở hữu ngân hàng theo quy định của pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn mới, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, góp phần trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.