Về Kiến Nghị Bảo Đảm Thực Hiện Pháp Luật


khoanh nợ, xoá nợ và miễn giảm lãi suất. Các nguyên tắc cho việc khoanh nợ, xoá nợ và miễn giảm lãi suất bao gồm: (i) NHTM phải xây dựng quy chế nội bộ về khoanh nợ, xoá nợ và miễn giảm lãi suất; (ii) việc khoanh nợ, miễn giảm lãi suất và xoá nợ phải căn cứ vào mức độ rủi ro của khách hàng và khả năng tài chính của NHTM; (iii) khi thực hiện khoanh nợ, xoá nợ, miễn giảm lãi suất, NHTM cần đảm bảo duy trì các tỷ lệ bảo đảm an toàn theo quy định; (iv) Không được thực hiện khoanh nợ, miễn giảm lãi suất, xoá nợ cho những trường hợp pháp luật không cho phép.

Thứ ba, về chấm dứt cấp tín dụng, xử lý nợ

- Sửa đổi Điều 130 Luật Các tổ chức tín dụng theo hướng giao cho NHNN quy định tỷ lệ tối đa nợ xấu trong HĐCTD của NHTM khi cần thiết nhằm bảo đảm an toàn trong HĐCTD. Đề xuất trên dựa trên các cơ sở sau đây:

Một là, như trong phần trước tác giả đã nêu, cách tốt nhất là pháp luật nên quy định một mức rủi ro (hay tỷ lệ rủi ro) có thể chấp nhận theo thông lệ quốc tế. Đồng thời đây cũng là tỷ lệ mà NHNN hướng đến trong Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam hiện đang thực hiện.

Hai là, việc quy định tỷ lệ tối đa nợ xấu sẽ có ý nghĩa trong việc kiểm soát trạng thái rủi ro của NHNN đối với hệ thống NHTM. Đảm bảo cho công tác thanh tra giám sát và xử lý thích hợp đối với những NHTM có tỷ lệ rủi ro cao.

Ba là, việc quy định tỷ lệ tối đa nợ xấu sẽ làm cơ sở cho các NHTM tăng cường trách nhiệm trong nhận biết rủi ro, từ đó có kế hoạch tăng trưởng tín dụng phù hợp và xử lý rủi ro.

Bên cạnh đó, pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng bảo vệ quyền lợi của bên nhận bảo đảm (NHTM) khi xử lý tài sản bảo đảm tín dụng. BLDS mới được thông qua năm 2015 cũng được tiếp cận trên cơ sở nguyên tắc vật quyền, theo đó quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo đảm được đảm bảo tốt hơn. Tác giả hoàn toàn nhất trí với sự sửa đổi này.

Thứ tư, về mua bán nợ

Hoàn thiện các quy định về mua bán nợ cần tập trung xây dựng theo ba nội dung như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.

- Thứ nhất, tuy việc xử lý nợ xấu phải nhận được sự quan tâm của toàn xã hội, của nhà nước, nhưng trách nhiệm chính vẫn thuộc về NHTM, bởi lẽ ai gây ra rủi ro thì người đó cần phải xử lý những rủi ro này. Nhà nước chỉ tham gia xử lý rủi ro với tư cách là người quản lý, điều tiết vĩ mô, đưa ra cơ chế và chính sách phù hợp, kịp thời để hỗ trợ công tác xử lý rủi ro cho hệ thống NHTM.

- Thứ hai, kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy, không nên đặt mục tiêu bảo toàn vốn và lợi nhuận làm nguyên tắc cho hoạt động mua bán và xử lý nợ. Thay vào đó, cần yêu cầu các tổ chức xử lý nợ phải tối đa hoá giá trị thu hồi để

Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 22


giảm thiểu gánh nặng cho ngân sách mà Chính phủ phải bỏ ra để hỗ trợ cho chương trình xử lý nợ tồn đọng.

- Thứ ba, áp dụng chứng khoán hoá trong việc giải quyết nợ xấu hiện nay ở Việt Nam. Theo đó, nợ xấu của các NHTM sẽ được bán cho các công ty xử lý nợ. Công ty xử lý nợ sẽ thực hiện việc chứng khoán hoá các khoản nợ xấu này và bán chứng khoán trên thị trường. Giải pháp này cần thực hiện song song với việc phát triển thị trường mua bán nợ ở Việt Nam hiện nay. Như vậy, hoạt động của các công ty quản lý nợ của các NHTM sẽ phát triển, với mục đích mua bán và xử lý nợ xấu có hiệu quả chứ không chỉ mang tính chất “làm sạch bảng cân đối tài sản” của các NHTM như thời gian vừa qua.

Thứ năm, về sử dụng dự phòng rủi ro

- Về Hội đồng xử lý rủi ro: hiện nay pháp luật quy định cơ cấu của Hội đồng này là những thành viên kiêm nhiệm. Tác giả cho rằng cần phải quy định những thành viên chuyên trách trong Hội đồng xử lý rủi ro xuất phát từ những lý do sau đây: (i) xử lý rủi ro là công việc rất quan trọng của các NHTM nên cần phải có các thành viên chuyên trách của Hội đồng xử lý rủi ro để đảm bảo cho việc xử lý rủi ro có tính chuyên nghiệp và hiệu quả hơn; (ii) những thành viên chuyên trách là những người có chuyên môn, kinh nghiệm và tập trung thời gian thực hiện công việc xử lý rủi ro nên đảm bảo xử lý rủi ro được kịp thời, bảo đảm an toàn cho các NHTM.

- Sửa đổi các quy định của pháp luật hiện hành về căn cứ sử dụng dự phòng rủi ro. Theo tác giả, không nên quy định về trường hợp “doanh nghiệp giải thể” là căn cứ sử dụng dự phòng rủi ro, bởi lẽ doanh nghiệp giải thể vẫn phải đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ. Vì vậy, căn cứ để sử dụng dự phòng rủi ro bao gồm doanh nghiệp phá sản, cá nhân bị chết hoặc mất tích mà không còn hoặc không đủ tài sản để trả nợ NH; các khoản nợ thuộc nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn); các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý (nếu có) và các trường hợp khác mà NH không thu hồi đủ hoặc không thu hồi được từ khách hàng.

Ngoài ra, mối quan hệ giữa sử dụng dự phòng rủi ro và xử lý tài sản bảo đảm. Cần phải quy định xử lý tài sản trước khi sử dụng dự phòng rủi ro. Trường hợp xử lý tài sản không đủ để thu hồi nợ thì sẽ sử dụng dự phòng rủi ro cụ thể, nếu chưa thu hồi hết thì sẽ sử dụng dự phòng chung để xử lý. Bên cạnh đó, pháp luật cần sử dụng các thuật ngữ chính xác và thống nhất như “dự phòng rủi ro” (chính là việc NHTM phải trích lập một khoản tiền nhằm bù đắp cho những tổn thất), “phát mại tài sản” (chính là xử lý tài sản bảo đảm thông qua việc bán tài sản bảo đảm).

4.3.2.2. Về kiến nghị bảo đảm thực hiện pháp luật

Đối với Nhà nước:

Nhà nước cần có cơ chế để phát triển thị trường mua bán nợ tại Việt Nam thông qua khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia vào hoạt động


mua bán nợ, có cơ chế ưu đãi về thuế, lãi suất và các ưu đãi khác để hình thành và phát triển thị trường mua bán nợ tại Việt Nam. Hiện nay, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần tại các TCTD tại các Điều 16,55. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của TCTD Việt Nam; Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục, tổng mức sở hữu cổ phần tối đa của các nhà đầu tư nước ngoài, tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của một nhà đầu tư nước ngoài tại một TCTD Việt Nam; điều kiện đối với TCTD Việt Nam bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. Nghị định 01/2014/NĐ-CP ngày 03/01/2014 của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài của cổ phần của các TCTD Việt Nam quy định tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của NHTM Việt Nam. Tác giả cho rằng cần tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các NHTM Việt Nam lên 49% bởi các lý do sau: (i) tăng cường thu hút và tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài; (ii) thuận lợi cho việc áp dụng những kinh nghiệm, chuẩn mực quốc tế mà các NH nước ngoài có được và (iii) tăng cường khả năng tài chính tại các NHTM cũng như tại các công ty quản lý tài sản tại Việt Nam. Tuy vậy, nhằm bảo đảm an toàn cho các NHTM Việt Nam, cần quy định chặt chẽ điều kiện, thủ tục để các NHTM nước ngoài đầu tư và sở hữu cổ phần các các NHTM Việt Nam.

Đối với Ngân hàng Nhà nước:

Để thực hiện tốt các quy định của pháp luật về xử lý rủi ro trong HĐCTD của các NHTM, Ngân hàng Nhà nước cần bảo đảm thực hiện thanh tra, giám sát thường xuyên đối với tất cả các hoạt động xử lý rủi ro tại các NHTM như: thanh tra, giám sát việc thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ tại các NHTM, việc sử dụng dự phòng rủi ro, hoạt động khoanh nợ, xoá nợ, miễn giảm lãi suất của các NHTM.

Đối với các ngân hàng thương mại:

- Các NHTM cần phải nhận thức xử lý rủi ro là công việc chủ động, thường xuyên và liên tục dưới sự giám sát của NHNN. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM .

- Áp dụng và thực hiện tốt chế độ báo cáo, thống kê, tạo tính trung thực, chính xác và đầy đủ cho các con số báo cáo của các NHTM, trong đó có báo cáo về tỷ lệ nợ xấu.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 4


Trong chương 4, tác giả đã phân tích những định hướng, giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Bằng phương pháp chủ đạo là phân tích, phương pháp phân tích – tổng hợp và phương pháp so sánh, tác giả đã làm sáng tỏ được những câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu đề ra trong chương 1, cụ thể như sau:

1. Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM phải dựa vào những định hướng nhất định, trước hết cần phải phù hợp với chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực vậy, những nội dung quan trọng trong các Văn kiện Đảng có liên quan đến hoạt động ngân hàng nói chung và HĐCTD nói riêng bao gồm: cải cách hệ thống thanh tra, giám sát NH trong việc bảo đảm an toàn HĐCTD của NHTM; áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị NH và an toàn NH và xử lý nhanh rủi ro trong HĐCTD. Bên cạnh đó, hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM phải khắc phục được những hạn chế, bất cập của pháp luật. Mặc dù pháp luật hiện hành đã thiết lập được nền tảng cơ bản cho việc phòng ngừa và xử lý rủi ro, bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM, song các quy định của pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập xuất phát bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, kể cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan. Điều đó đặt ra yêu cầu rất cần thiết là phải khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành, đồng thời cần tạo ra những giải pháp thực hiện pháp luật một cách có hiệu quả. Phương án tối ưu là không cần phải xây dựng một đạo luật riêng về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM, mà cần sửa đổi, bổ sung những văn bản pháp luật hiện hành, bãi bỏ những quy định mâu thuẫn, chồng chéo và không phù hợp.

Cùng với đó, hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM cần tiếp thu những chuẩn mực, thông lệ quốc tế, những kinh nghiệm của các quốc gia về bảo đảm an toàn trong hoạt động NH như Hiệp ước vốn Basel (1,2 và 3), các tiêu chí lành mạnh tài chính (FSIs) của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), kinh nghiệm của các quốc gia trong việc xây dựng pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng như Bộ quy tắc CAMELS của Hoa Kỳ về thanh tra giám sát NH, các quy định về xử lý rủi ro của Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc.

Ngoài ra, hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM cần dựa trên những lý thuyết về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM như: lý thuyết về sự can thiệp của nhà nước trong đời sống kinh tế xã hội, lý thuyết về hiệu quả của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường và cách tiếp cận kinh tế học pháp luật. Vận dụng các lý thuyết này tác giả cho rằng, pháp


luật cần được hoàn thiện theo hướng hài hoà lợi ích giữa các chủ thể trong việc bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NH; bảo đảm sự phù hợp trong việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NH; bảo đảm tính bền vững của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NH; chấm dứt sự lũng đoạn HTNH cũng như kiểm soát tốt hoạt động ngân hàng cũng như trạng thái rủi ro của NH.

2. Dựa trên những định hướng cơ bản vừa nêu, tác giả đã phân tích những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật về thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Trước hết, pháp luật được hoàn thiện theo hướng quy định nghĩa vụ của NHTM về bảo đảm an toàn trong HĐCTD. Nghĩa vụ của NHTM bảo đảm an toàn trong HĐCTD có những nét khác so với nghĩa vụ pháp lý theo cách tiếp cận truyền thống ở chỗ nghĩa vụ pháp lý theo cách tiếp cận truyền thống nhằm thực hiện quyền chủ thể khác thì nghĩa vụ bảo đảm an toàn của NHTM nhằm bảo đảm an toàn cho chính ngân hàng đó, cho hệ thống các NHTM và an toàn chung cho toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, cần giám sát chặt chẽ trạng thái an toàn trong HĐCTD của NHTM thông qua việc áp dụng cơ chế kiểm soát rủi ro kép. Ngoài ra, cần quy định chế tài nghiêm khắc hơn đối với các hành vi vi phạm an toàn trong HĐCTD của các NH thông qua việc nâng mức xử phạt vi phạm về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM để đảm bảo tính răn đe, ngăn ngừa những hành vi vi phạm vốn dĩ để lại hậu quả vô cùng lớn cho bản thân từng ngân hàng, HTNH và toàn xã hội. Song song với những giải pháp cơ bản vừa nêu thì các giải pháp khác về nhân sự và công nghệ cũng có vai trò quan trọng.

3. Bên cạnh đó, tác giả còn đề xuất những kiến nghị cụ thể trong việc hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM thông qua sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật về phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro trong HĐCTD. Với hệ thống những giải pháp và kiến nghị nêu trên, tác giả kỳ vọng rằng sẽ góp phần tăng cường việc hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới.


KẾT LUẬN


Những nghiên cứu và kết quả trong luận án làm cơ sở cho tác giả đưa ra những kết luận sau đây:

1. Bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại là một vấn đề rất quan trọng, không chỉ đối với bản thân mỗi ngân hàng thương mại, mà còn đối với nhà nước và xã hội. Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại với các góc độ khác nhau. Những công trình nghiên cứu đó là cơ sở quan trọng cho tác giả trong việc nghiên cứu, tiếp thu, kế thừa và phát triển trong luận án của mình.

2. Tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại. Việc nghiên cứu này có mục đích là làm sáng tỏ câu hỏi thứ nhất: pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại được hình thành và phát triển dựa trên cơ sở lý thuyết nào? Cụ thể, đề tài đã làm rõ sự tất yếu của bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại. Hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng đối với đời sống kinh tế xã hội. Vì vậy, bảo đảm an toàn trong hoạt động này là yêu cầu rất cần thiết nhằm duy trì sự ổn định, hiệu quả, vững mạnh của hệ thống ngân hàng. Từ đó, đề tài phân tích khái niệm, các tiêu chí đánh giá và nội dung của bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại. Trên cơ sở đó, đề tài tiếp cận pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại bao gồm hai bộ phận cấu thành là pháp luật về phòng ngừa rủi ro và pháp luật về xử lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại.

Từ sự phân tích đó, tác giả đã làm sáng tỏ pháp luật là một công cụ rất quan trọng nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại. Bởi lẽ, pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động phòng ngừa và xử lý rủi ro nhằm bảo đảm an toàn trong trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại. Pháp luật thiết lập cơ sở pháp lý cho các ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động cấp tín dụng an toàn, hiệu quả. Bên cạnh đó, pháp luật còn là công cụ rất hữu hiệu nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của các ngân hàng thương mại nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng. Cùng với đó, pháp luật còn ghi nhận, phản ánh và thể chế hóa những kinh nghiệm, phương pháp bảo đảm an toàn phù hợp và có hiệu quả để áp dụng cho hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Không những vậy, pháp


luật là cũng phương tiện để nhà nước thực hiện kiểm tra, giám sát an toàn đối với các ngân hàng thương mại, đồng thời phát huy trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại.

Đồng thời, những yêu cầu của pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại là: yêu cầu về việc tăng cường năng lực cạnh tranh, đảm bảo hiệu quả, phát triển bền vững hoạt động ngân hàng; cần phải dự liệu được những rủi ro, hậu quả của nó và đưa ra những giải pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro; yêu cầu về đảm bảo quyền tự do kinh doanh của ngân hàng thương mại cũng như đảm bảo sự điều tiết hợp lý của nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng.

Từ đó, câu hỏi nghiên cứu thứ nhất đã được làm rõ và các giả thuyết nghiên cứu cho câu hỏi này đã được chứng minh.

3. Từ những vấn đề mang tính lý luận nêu trên, tác giả đã phân tích thực trạng pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam thông qua việc nghiên cứu thực tiễn pháp luật về phòng ngừa rủi ro; pháp luật về xử lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại. Việc phân tích đó nhằm làm sáng tỏ câu hỏi thứ hai: thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật ở Việt Nam có bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại hay không? Bên cạnh việc chỉ ra những điểm còn tồn tại, hạn chế và chưa hoàn thiện của những nội dung cụ thể của pháp luật về phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro, tác giả đã nhận thấy rằng, pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại còn chưa thiết lập hệ thống các giải pháp hiệu quả để bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam; chưa có cơ chế hiệu quả trong việc kiểm soát dòng vốn tín dụng đã cấp cho khách hàng cũng như kiểm soát rủi ro hoạt động tại ngân hàng thương mại; chưa quy định rõ quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thương mại trong bảo đảm an toàn hoạt động cấp tín dụng; thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại chưa nghiêm túc. Vì vậy, giả thuyết nghiên cứu đặt ra đã được chứng minh, đó là: pháp luật hiện hành còn những hạn chế, bất cập nên chưa thực sự phòng ngừa và xử lý rủi ro trong HĐCTD của các NHTM, đồng thời thực tiễn thực hiện các quy định này của pháp luật chưa nghiêm túc, vì vậy chưa bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM.

4. Thực trạng pháp luật hiện hành như đã nghiên cứu cho thấy cần phải có những định hướng, giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại. Việc nghiên cứu đó nhằm làm sáng tỏ câu hỏi thứ ba: việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại phải dựa trên cơ sở nào? Để pháp luật trong lĩnh vực này áp dụng tốt trong thực tiễn thì cần thiết phải sửa đổi những nội dung nào?


Những quy định nào cần thiết phải được ban hành mới? Tác giả đã phân tích những định hướng cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại như: phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành; tiếp thu những kinh nghiệm, chuẩn mực và thông lệ quốc tế về bảo đảm an toàn cũng như dựa trên những lý thuyết về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại, tác giả đã đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại như: quy định nghĩa vụ bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại; giám sát chặt chẽ trạng thái an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại; quy định chế tài nghiêm khắc hơn đối với các hành vi vi phạm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại và các giải pháp khác. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại như: kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại; kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Từ đó, câu hỏi nghiên cứu đã được làm rõ, giả thuyết nghiên cứu đã được chứng minh.

5. Xuyên suốt luận án, tác giả luôn bám sát vào đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu của đề tài. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như thống kê, phân tích, phân tích - tổng hợp và phương pháp so sánh luật học được sử dụng phù hợp nhằm giải quyết những vấn đề mà luận án đặt ra. Không những vậy, tác giả còn dựa trên những cơ sở lý thuyết, coi đây là nền tảng quan trọng cho những nghiên cứu và luận giải trong luận án.

6. Nhận thức rằng, pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại là vấn đề rộng và phức tạp, cần có sự nghiên cứu lâu dài, kế thừa và phát triển liên tục. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã có sự cố gắng cao nhất. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sẽ đặt ra nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu và tiếp tục hoàn thiện. Tác giả mong muốn sẽ tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới.

Xem tất cả 212 trang.

Ngày đăng: 14/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí