2012. Đây có thể nói là một tín hiệu đáng mừng cho việc mở rộng CVTD của phòng giao dịch VPBank Kim Liên.
Cơ cấu dư nợ CVTD theo thời hạn vay:
Bảng 2.5. Cơ cấu CVTD theo thời hạn cho vay giai đoạn 2011-2013
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2011 | Năm 2012 | Năm 2013 | ||||
Số tiền | % | Số tiền | % | Số tiền | % | |
1. Ngắn hạn | 10,38 | 21,6% | 12,3 | 19.5% | 15,34 | 17,3% |
2. Trung và dài hạn | 37,67 | 79,4% | 50,74 | 80,5% | 73,33 | 82,3% |
3. Dư nợ CVTD | 48,05 | 100% | 63,04 | 100% | 88,67 | 100% |
Có thể bạn quan tâm!
- Phân tích thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng tmcp Việt Nam thịnh vượng - phòng giao dịch kim liên - 1
- Phân tích thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng tmcp Việt Nam thịnh vượng - phòng giao dịch kim liên - 2
- Thực Trạng Hoạt Động Cho Vay Tiêu Dùng Tại Ngân Hàng Tmcp Việt Nam Thịnh Vượng - Phòng Giao Dịch Kim Liên
- Tổng Dư Nợ Và Tăng Trưởng Dư Nợ Tín Dụng 2011-2013
- Phân tích thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng tmcp Việt Nam thịnh vượng - phòng giao dịch kim liên - 6
Xem toàn bộ 57 trang tài liệu này.
(Nguồn : Phòng Tín dụng) Từ bảng cho thấy cơ cấu hoạt động cho vay tiêu dùng tại phòng giao dịch đang dần chuyển dịch cơ cấu sang chủ yếu là cho vay trung và dài hạn. Tỷ trọng cho vay trung và dài
hạn lớn, chiếm khoảng 80% - 83% tổng dư nợ CVTD.
Nguyên nhân là do ngân hàng đang phát triển các loại hình cho vay mua nhà, sửa chữa nhà, cho vay mua ô tô. Đây đều là những sản phẩm có thời gian cho vay tương đối dài. Chẳng hạn như hoạt động cho vay sửa chữa lớn, mua sắm nhà cửa thường là những khoản vay có thời hạn từ 12 tháng đến 3 năm, thời hạn thu hồi kéo dài cho nên dư nợ của hoạt động này cũng tăng lên. Tuy nhiên các khoản vay với thời hạn trung và dài hạn thường đòi hỏi ngân hàng phải có một cơ cấu nguồn vốn hợp lý, với nguồn trung và dài hạn đủ lớn đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường.
Các khoản cho vay ngắn hạn thường là các khoản cho vay bổ sung vốn cho nhu cầu của cá nhân, hộ gia đình, ngân hàng có thể quay vòng được vốn nhanh hơn và nó phù hợp với nguồn vốn mà ngân hàng huy động được, do vậy mà dư nợ CVTD ngắn hạn thường thấp và chiếm tỷ trọng không cao (chỉ chiếm từ 17%- 21% tổng dư nợ CVTD), đang có xu hướng giảm. Năm 2011, tỷ trọng dư nợ ngắn hạn chiếm 21,6% nhưng đến năm 2013 chỉ còn 17,3% trong tổng dư nợ CVTD.
Như vậy, với cơ cấu cho vay như trên, ngân hàng sẽ có khoản thu lâu dài. Tuy nhiên vì nguồn VHĐ của ngân hàng chủ yếu là từ nguồn ngắn hạn nên khi ngân hàng lấy nguồn vốn huy động ngắn hạn cho vay trung, dài hạn đồng nghĩa với việc ngân hàng phải chịu rủi ro về
40
lãi suất và rủi ro thanh khoản. Khi doanh nghiệp được cho vay dài hạn thì sau 24 tháng mới phải hoàn trả hết số tiền vay ngân hàng, trong khi tiền gửi lại chỉ có kỳ hạn 3 tháng, nếu lãi suất huy động tăng lên rồi mà thanh khoản của ngân hàng có vấn đề thì ngân hàng còn phải huy động lãi suất cao hơn nữa.
Cơ cấu dư nợ CVTD theo mục đích vay vốn:
Bảng 2.6. Dư nợ CVTD theo mục đích giai đoạn 2011- 2013
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2011 | Năm 2012 | Năm 2013 | ||||
Số tiền | % | Số tiền | % | Số tiền | % | |
Dư nợ CVTD | 48,05 | 100 | 63,04 | 100 | 88,67 | 100 |
1. Dư nợ cho vay hỗ trợ nhu cầu nhà ở | 34,83 | 72.5 | 46,56 | 73.9 | 66,6 | 75.1 |
2. Dư nợ cho vay mua ô tô | 3,22 | 6.7 | 4,61 | 7.3 | 7,63 | 8.6 |
3. Dư nợ cho vay CBCNV | 1,25 | 2.6 | 1,51 | 2.4 | 1,59 | 1.8 |
4. Dư nợ CVTD khác | 8,75 | 18,2 | 10,36 | 16,4 | 12,85 | 14,5 |
(Nguồn: Phòng tín dụng)
CVTD
như tỷ trọng lớn nhất trong các hình thức cho vay tiêu dùng (“Dư nợ CVTD khác” ở bảng bao gồm nhiều dư nợ của nhiều sản phẩm CVTD khác ngoài sản phẩm được kể tên trên đó) tại Phòng giao dịch bởi các khoản vay này thường có giá trị lớn hơn các khoản vay tiêu dùng khác cũng như có thời hạn dài hơn. Điều này cũng là bình thường khi mà đời sống của người dân ngày một được cải thiện thì nhu cầu về nhà ở tiện nghi hơn, đẹp hơn và rộng hơn cũng tăng lên… Do vậy, đã có nhiều người đến vay tiền ngân hàng để mua nhà hoặc để kinh doanh bất động sản. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng và phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng ở các ngân hàng nói chung và ở phòng giao dịch VPBank Kim Liên nói riêng. CVTD hỗ trợ nhu cầu nhà ở năm 2012 là 46,56 tỷ (tăng 11,73 tỷ đồng so với năm 2011), và đến năm 2013 thì tăng mạnh (từ 146,56 tỷ đồng lên 66,6 tỷ đồng, nghĩa là tăng 20,04 tỷ đồng, tương đương mức tăng 43,04%). Tuy tỷ lệ tăng trưởng của vay hỗ trợ nhu cầu nhà ở tăng cao trong năm 2013 nhưng tỷ trọng dư nợ của nó trong tổng dư nợ CVTD không tăng nhiều nếu so với năm 2011.
41
Hoạt động cho vay mua ô tô của ngân hàng với đối tượng là các cá nhân và hộ gia đình cũng tăng đáng kể. Nguyên nhân là do trong thời gian gần đây, thu nhập, đời sống của người dân ngày càng tăng cao nên nhiều người có nhu cầu mua ô tô làm phương tiện đi lại. Mặt khác các doanh nghiệp thương mại bán ô tô cũng có những chính sách để đẩy mạnh hoạt động bán hàng của mình như: giảm giá, tặng quà hay đa dạng hóa các hình thức trả tiền: Trả ngay một lần, trả góp… tạo điều kiện thuận lợi cho người mua. Do đó dư nợ cho vay mua ô tô tăng nhanh và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay tiêu dùng. Năm 2011 tỷ trọng là 6,7%, tương đương ở mức dư nợ 3,22 tỷ đồng, năm 2013 dư nợ là 7,61 tỷ đồng. Và tỷ trọng dư nợ cho vay mua ô tô trong tổng dư nợ CVTD tăng từ 7,3% năm 2012 lên 8.6% năm 2013.
Hoạt động cho vay CBCNV chiếm tỷ trọng thấp nhất trong tổng dư nợ cho vay tiêu dùng, có xu hướng tăng lên về giá trị nhưng lại giảm về tỷ trọng. Năm 2011 dư nợ cho vay CBCNV là 1,25 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,6% đến năm 2013 con số này là 1,59 tỷ đồng nhưng tỷ trọng chỉ còn chiếm 1,8% trong tổng dư nợ CVTD. Do mức thu nhập của cán bộ, công nhân viên phòng giao dịch khá ổn định, đảm bảo chi trả được các hoạt động tiêu dùng của mình nên nhu cầu vay nợ rất thấp, tỷ trọng ngày càng giảm. Dư nợ CVTD khác chiếm tỷ trọng cao thứ hai sau các khoản cho vay hỗ trợ nhu cầu mua nhà, cũng đang có xu hướng tăng về giá trị nhưng lại giảm về tỷ trọng (năm 2011 là 8,75 tỷ đồng tương đương tỷ trọng 18,2%; năm 2013 là 12,85 tỷ đồng, tương đương mức 14,5%).
Tuy có sự thay đổi về tỷ trọng của các khoản vay trong tổng dư nợ, nhưng giá trị tuyệt đối của các khoản vay không ngừng tăng qua các năm ở tất cả các loại hình vay cho thấy CVTD của Phòng giao dịch đã và đang được chú trọng mở rộng và phát triển.
Dư nợ CVTD so với giá trị TSĐB
Việc mở rộng đó có đảm bảo an toàn cho phòng giao dịch và có được bền vững hay không, thì một trong những yếu tố cần xem xét tới đó là giá trị tài sản đảm bảo cho các khoản vay. Tình hình dư nợ CVTD so với giá trị TSĐB giai đoạn 2011 - 2013 như sau:
Bảng 2.7. Dư nợ CVTD so với giá trị TSĐB
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2011 | Năm 2012 | Năm 2013 | |
Dư nợ CVTD | 48,05 | 63,04 | 88,67 |
Giá trị TSTC-CC | 42,09 | 60,71 | 82,91 |
Tỷ lệ TSĐB/DN CVTD (%) | 87.6 | 96.3 | 93.5 |
(Nguồn: Phòng tín dụng)
42
CVTD được đánh giá là hình thức cho vay có tỷ lệ rủi ro cao nên hiện nay đối với đa số các khoản vay tiêu dùng phòng giao dịch đều yêu cầu có tài sản đảm bảo. Tài sản thế chấp - cầm cố (TSTC - CC) có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho ngân hàng có thể xử lý các khoản nợ mà khách hàng không trả được nợ. Tỷ lệ TSĐB/DN CVTD là cao, ở mức 88% - 94%, giá trị các khoản này tăng theo từng năm.
Với cơ cấu sản phẩm cho vay và tỷ lệ tài sản đảm bảo so với tổng dư nợ CVTD được thể hiện trên bảng đảm bảo cho phòng giao dịch có thể thu hồi các khoản nợ khá dễ dàng. Nếu loại trừ cho vay CBCNV (chủ yếu là nội bộ VPBank) và thấu chi tài khoản tiền gửi là đảm bảo bằng tín chấp và thu nhập của cá nhân thì toàn bộ dư nợ CVTD còn lại đều đảm bảo với tỷ lệ tài sản đảm bảo 100%. Toàn bộ các tài sản này đều là hợp pháp và được đăng ký giao dịch đảm bảo đầy đủ.
2.2.3.2. Về tình hình doanh thu CVTD
Thu lãi CVTD chính là một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của các khoản vay tiêu dùng. Chúng ta có thể thấy được sự tăng trưởng khoản thu từ CVTD của phòng giao dịch trong 3 năm gần đây qua bảng số liệu sau:
Biểu đồ 2.4. Doanh thu từ hoạt động CVTD trong giai đoạn 2011-2013
Đơn vị: tỷ đồng
(Nguồn: Phòng kế toán)
Doanh thu trong hoạt động tín dụng được nhìn nhận cụ thể là số tiền lãi thu được từ việc cho vay chưa trừ lãi suất huy động vốn.
43
Qua bảng trên, dễ dàng nhận thấy tỷ trọng doanh thu CVTD trong tổng doanh thu hoạt động tín dụng chưa cao nhưng có nhiều tiềm năng mở rộng. Mặc dù năm 2011, doanh thu từ CVTD là 1,21 tỷ đồng nhưng hoạt động cho vay tiêu dùng đóng góp 11,82% trong tổng doanh thu từ hoạt động tín dụng. Năm 2012, doanh thu từ hoạt động này tăng lên 1,73 tỷ đồng chiếm 14,2% trong tổng doanh thu và tăng 42,3% so với năm 2011. Năm 2013, doanh thu từ lãi của hoạt động này cũng đạt ở mức tương đối cao, 2,36 tỷ đồng chiếm 16,5% trong tổng doanh thu tín dụng (tăng 0,63 tỷ đồng, tương ứng tăng tương đối 36,42% so với năm 2012).
Mặc dù tổng thu lãi từ hoạt động cho vay tiêu dùng tại Phòng giao dịch hiện nay còn thấp so với các hình thức cho vay khác, nhưng nếu xét mức thu lãi trên một đồng vốn cho vay thì hoạt động cho vay tiêu dùng lại cao hơn nhiều. Chứng tỏ một đồng vốn ngân hàng bỏ ra thì hoạt động cho vay tiêu dùng đem lại một nguồn thu lãi cao hơn so với các hình thức cho vay khác. Đây chính là sản phẩm mang lại lợi ích kinh tế cho ngân hàng và trong tương lai tới ngân hàng cần mở rộng hơn nữa hoạt động này.
2.2.3.3. Về tình hình nợ quá hạn, nợ xấu CVTD
Bảng 2.8. Tình hình nợ quá hạn, nợ xấu CVTD
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2011 | Năm 2012 | Năm 2013 | |
Tổng dư nợ CVTD | 48,05 | 63,04 | 88,67 |
Nợ quá hạn | 0,5 | 0,74 | 1,1 |
Tỷ lệ nợ quá hạn | 1,05% | 1,18% | 1,24% |
Nợ xấu | 0,24 | 0,68 | 0,61 |
Tỷ lệ nợ xấu | 0,49% | 1,08% | 0,69% |
(Nguồn: Phòng Tín dụng)
Với chỉ tiêu nợ quá hạn như trên, so với tỷ lệ nợ quá hạn chung của tổng dư nợ thì nợ quá hạn trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng ở mức thấp: năm 2011 là 1,05%, năm 2012 là 1,18%, năm 2013 là 1,24% đồng thời tỷ lệ nợ xấu cũng chiếm tỷ lệ thấp ( năm 2011 dưới 0,5%). Điều này là do nợ cần chú ý (nợ nhóm 2) của hoạt động cho vay tiêu dùng chiếm tỷ trọng chủ yếu.
Tỷ lệ nợ xấu năm 2011 là 0,49%, năm 2012 tăng lên 1,08% và năm 2013 kiểm soát về mức 0,69%. Do hầu hết các món vay tiêu dùng đều được đảm bảo 100% bằng tải sản đảm
44
bảo hay đối với vay tín chấp cũng có nguồn trả nợ vững chắc nên dư nợ xấu CVTD ở mức tương đối thấp, tỷ lệ nợ xấu không cao chứng tỏ các khoản vay được đảm bảo an toàn. Điều này chứng tỏ hoạt động cho vay tiêu dùng với đặc thù lãi suất tiêu dùng cao, tài sản đảm bảo của cá nhân đầy đủ, cho vay tín chấp đối với các khách hàng có thu nhập ổn định và quy mô cho vay trên một khách hàng là nhỏ nên hoạt động cho vay tiêu dùng đã và đang phát huy được vai trò tích cực trong sự ổn định và phát triển hoạt động cho vay tại phòng giao dịch. Việc phòng giao dịch hạn chế được tỷ lệ nợ xấu trong CVTD giúp nâng cao được hiệu quả của khoản vay, tăng lợi nhuận đồng thời chia sẻ rủi ro với các hoạt động tín dụng khác.
2.3. Đánh giá về hoạt động CVTD của VPBank Kim Liên
2.3.1. Kết quả đạt được
Như vậy thông qua phân tích hoạt động cho vay tiêu dùng của VPBank Kim Liên trong giai đoạn 2011 – 2013, có thể thấy được một số kết quả như sau:
Thứ nhất, hoạt động CVTD trong thời gian qua có sự mở rộng, duy trì được tốc độ tăng trưởng. Trong những năm qua phòng giao dịch đã không ngừng đẩy mạnh chiếm lĩnh thị phần CVTD ngày càng rộng hơn trên địa bàn. Đây là một hướng phát triển hoàn toàn đúng đắn. Mặt khác, việc mở ra một thị trường mới cũng đồng nghĩa với sự đa dạng hóa đối tượng khách hàng, giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro khi tập trung quá mức vào một nhóm khách hàng, tạo nên tính năng động và linh hoạt trong hoạt động cho vay. Đây là một mục tiêu quan trọng trong bối cảnh hiện nay khi các ngân hàng cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt, khốc liệt.
Thứ hai, CVTD góp phần đa dạng hóa danh mục sản phẩm, phân tán rủi ro cho ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của Phòng giao dịch trên thị trường: đặc trưng hoạt động kinh doanh ngân hàng là luôn tiềm ẩn rủi ro, bên cạnh đó cùng với sự xuất hiện của rất nhiều các ngân hàng, các định chế tài chính khác trong và ngoài nước đã làm cho mức độ cạnh tranh trên thị trường rất gay gắt. Mặt khác, nền kinh tế đang ngày càng có những biến động lớn thì cho vay kinh doanh cũng bắt đầu gặp nhiều khó khăn. Thông qua việc mở rộng loại hình, phương thức CVTD, đã góp phần đa dạng hóa danh mục sản phẩm của phòng giao dịch. Một mặt giúp Phòng giao dịch giảm thiểu rủi ro, mặt khác nó còn là động lực thúc đẩy sự phát triển các sản phẩm dịch vụ khác đi kèm như: dịch vụ thanh toán thẻ, chuyển khoản, mở tài khoản… làm tăng thêm thu nhập cho phòng giao dịch, thu hút được nhiều khách hàng tiềm năng, cũng như tạo được mối quan hệ lâu dài với khách hàng hơn, qua đó tăng khả năng cạnh tranh của Phòng giao dịchtrên thị trường.
Thứ ba, mở rộng CVTD tăng tính chủ động trong công tác tìm kiếm khách hàng: Việc thực hiện nghiệp vụ cho vay tiêu dùng đã góp phần làm thay đổi quan điểm của cán bộ tín dụng tại phòng giao dịch. Họ đã chủ động hơn, sáng tạo hơn trong công tác tìm kiếm, tiếp
45
cận khách hàng, do khách hàng của CVTD đại đa số là cá nhân và hộ gia đình, không có thói quen giao dịch với ngân hàng, có tâm lý e ngại do không hiểu nghiệp vụ.
Thứ tư, CVTD góp phần nâng cao khả năng huy động vốn. Ưu điểm của cho vay tiêu dùng là phục vụ số lượng lớn khách hàng, do đó nếu như khách hàng thoả mãn về dịch vụ được cung cấp họ sẽ thêm tin tưởng và sẽ trở thành những người quảng bá hình ảnh của ngân hàng hiệu quả nhất. Nếu như trước đây, khách hàng tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp lớn của nhà nước thì đến nay đã có rất nhiều các khách hàng là cá nhân, hộ gia đình. Họ không chỉ đến vay các khoản phục vụ nhu cầu tiêu dùng mà còn sử dụng nhiều dịch vụ khác của ngân hàng, quảng bá hình ảnh ngân hàng do đó góp phần mở rộng các hoạt động khác của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng cạnh tranh nhau gay gắt như hiện nay thì việc mở rộng được khách hàng là một điều rất khó khăn, nhưng với những nỗ lực không ngừng phòng giao dịch VPBank Kim Liên đã thực hiện được việc đó, đây là một thành công trong quá trình phát triển. Không chỉ vậy, CVTD là một hướng đi mới, việc đẩy mạnh cho vay tiêu dùng sẽ tăng cường hiệu quả sử dụng vốn, do đó mà nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Tổng nguồn vốn huy động được qua các năm là rất lớn nhưng việc sử dụng chưa đạt hiệu quả cao, do đó với việc mở rộng cho vay tiêu dùng, đã sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn, tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh.
2.3.2. Hạn chế
Mặc dù trong những năm qua vẫn tăng trưởng mạnh, hoạt động CVTD vẫn chưa thực sự tướng xứng với tiềm năng của phòng giao dịch, thể hiện qua các chỉ tiêu :
Thứ nhất, quy mô CVTD còn nhỏ bé. Dư nợ và tỷ trọng CVTD trong tổng dư nợ còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng của phòng giao dịch cũng như thị trường. Theo phân tích ở trên ta thấy mặc dù dư nợ CVTD qua các năm đều có sự tăng trưởng về số tuyệt đối, tuy nhiên tỷ trọng dư nợ CVTD/ tổng dư nợ của phòng giao dịch còn thấp trong khi nhu cầu CVTD trên địa bàn ngày càng tăng cao.
Thứ hai, sản phẩm CVTD của VPBank khá đa dạng, tuy nhiên phòng giao dịch chưa triển khai được nhiều sản phẩm hoặc có sản phẩm đã triển khai nhưng phát sinh dư nợ vay không đáng kể (cho vay đối với người đi lao động nước ngoài, cho vay cán bộ công nhân viên mua cổ phiếu phát hành lần đầu ở các doanh nghiệp cổ phần hóa…), vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tốt nhất của khách hàng, vẫn cho vay ở mức thấp. Mặt khác sản phẩm CVTD vẫn chưa thể hiện được bản sắc riêng của ngân hàng trong mỗi sản phẩm. Nếu như các ngân hàng khác, mỗi sản phẩm mới tung ra thị trường đều được gắn với một cái tên thể hiện tính chuyên biệt và điểm ưu việt của sản phẩm đối với khách hàng, ví dụ như: sản phẩm tín dụng tiêu dùng mang tên “Cho vay Bảo tín tiêu dùng” của NHTMCP Sài Gòn thương tín, Sản phẩm “Vay 24 phút” của ngân hàng TMCP Đông Á… thì tại VPBank các sản phẩm vẫn còn
46
chung chung: cho vay mua nhà, cho vay mua ô tô…khiến khách hàng chưa thực sự ấn tượng.
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế
2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan
Một là, chính sách tín dụng chưa chú trọng phát triển cho vay tiêu dùng
Tín dụng của Phòng giao dịchchủ yếu tập trung cho vay đối với các doanh nghiệp và các hộ sản xuất còn ít chú trọng thị trường cho vay tiêu dùng. Với xuất phát điểm là ngân hàng ngoài quốc doanh chuyên phục vụ các nhu cầu cho vay đầu tư, xây dựng cơ bản của các doanh nghiệp, cho đến nay, tuy đối tượng cho vay của ngân hàng đã thay đổi, mở rộng đến mọi thành phần kinh tế, nhưng ngân hàng vẫn tập trung cho vay các khoản vay lớn đến hàng chục, lớn hơn gấp nhiều lần so với các khoản vay tiêu dùng. Mặt khác, dưới góc độ ngân hàng, CVTD phát sinh nhiều nhiều chi phí hơn cho vay kinh doanh. Tuy nhiên trên thực tế, lợi nhuận thu được từ các khoản cho vay tiêu dùng là rất cao, thường cao hơn các loại cho vay theo các loại hình khác của ngân hàng. Nếu quy mô hoạt động CVTD lớn thì chi phí bình quân mỗi món vay sẽ nhỏ và lợi nhuận thu được sẽ rất lớn. Với việc đa dạng, cải tiến sản phẩm cho vay nhằm thu hút nhiều khách hàng, thị trường cho vay tiêu dùng chính là mục tiêu nhắm đến của nhiều Ngân hàng . Vì vậy đây là thị trường rất nhiều tiềm năng và nên tập trung khai thác của phòng giao dịch.
Bên cạnh đó, đối tượng vay tiêu dùng bị hạn chế, trong đó điều kiện cho vay bị ràng buộc quá nhiều thủ tục như: xin giấy của cơ quan cấp trên, đất và nhà ở cùng chỗ phòng giao dịch cho vay, vị trí thuận lợi cho giao dịch chuyển nhượng. Do vậy nhiều khách hàng có thu nhập ổn định, có khả năng trả nợ tốt nhưng tài sản đảm bảo chưa có đủ giấy tờ pháp lý nên cũng không nằm trong đối tượng được cho vay; hay đối tượng cho vay của một số sản phẩm bắt buộc phải có mở tài khoản tiền gửi và trả lương …
Hai là, hoạt động Marketing chưa được đẩy mạnh
Nhìn chung hoạt động này chưa có chiến lược rõ ràng, còn yếu kém và thụ động, chủ yếu dựa vào những công cụ marketing do VPBank cung cấp, chưa tạo được bản sắc riêng.
Việc tổ chức các sự kiện, chương trình để giới thiệu, quảng bá về Ngân hàng cũng như sản phẩm của ngân hàng chưa được xúc tiến. Hơn thế nữa, việc quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng chỉ dừng lại ở việc đưa ra những thủ tục, đặc điểm sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng và còn khá mờ nhạt so với các ngân hàng khác. Ngân hàng cũng chưa thực sự giúp khách hàng nhận biết được lợi ích mà cho vay tiêu dùng của ngân hàng đem lại cho mình trong những thông điệp quảng cáo trong khi điều đó là rất cần thiết để gợi mở nhu cầu của khách hàng. Chính điều này dẫn đến khách hàng đến vay tiêu dùng
47
tại ngân hàng chủ yếu là khách hàng truyền thống gắn bó lâu năm với ngân hàng hoặc qua sự giới thiệu của người thân, bạn bè, việc chủ động tìm kiếm khách hàng mới chưa được đẩy mạnh.
Ba là, sản phẩm còn chưa đa dạng, chưa thu hút sự quan tâm của khách hàng
Phòng giao dịchchỉ mới triển khai các sản phẩm thông thường mà hầu hết các Ngân hàng khác đều có, chưa có sự khác biệt để thu hút các khách hàng. Bên cạnh đó, lãi suất cho vay còn kém linh hoạt. Lãi suất cho vay tiêu dùng luôn cao hơn so với lãi suất cho vay cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, người tiêu dùng luôn đặt vấn đề thoả tiêu dùng lên hàng đầu, họ sẵn sàng chấp nhận mức giá cao. Khi mà các ngân hàng đồng loạt hướng phát triển cho vay tiêu dùng thì lãi suất là yếu tố quyết định hành động vay của khách hàng. Họ sẽ có sự so sánh lãi suất cho vay giữa các ngân hàng để lựa chọn ngân hàng có mức lãi suất có lợi cho họ. Vì vậy, việc áp dụng mức lãi suất cứng nhắc đối với cùng đối tượng khách hàng sẽ không hấp dẫn được họ và từ đó ảnh hưởng đến doanh số cho vay tiêu dùng.
Ngoài ra, khách hàng đến với phòng giao dịch chưa nhận được nhiều tiện ích khác từ các dịch vụ cho vay tiêu dùng. Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng chỉ dừng lại ở việc vay tiền, định kỳ trả nợ và thanh lý hợp đồng. Đây là hạn chế lớn đối với việc mở rộng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cũng như để giữ chân khách.
Bốn là, trình độ cán bộ tín dụng chưa được nâng cao
Khi một khách hàng đến ngân hàng vay vốn thì nhân viên quan hệ khách hàng sẽ là người trực tiếp tiếp xúc, giải đáp những thắc mắc và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ. Do vậy, chất lượng phục vụ của ngân hàng sẽ được khách hàng ấy đánh giá qua các nhân viên quan hệ khách hàng. Nguồn nhân lực của phòng giao dịch được đánh giá là trẻ, có trình độ học vấn. Tuy nhiên, đi với đó là kinh nghiệm làm việc, mối quan hệ xã hội còn hạn hẹp. Hàng năm, Phòng giao dịchcũng thực hiện gửi cán bộ đi học tập huấn theo các lớp tập huấn của VPBank, tuy nhiên số lượng đào tạo hàng năm còn ít và chương trình đào tạo không đa dạng, lặp đi lặp lại. VPBank Kim Liên chưa tự tổ chức các khóa đào tạo hoặc gửi cán bộ đi học các chương trình phù hợp và cần thiết cho công tác marketing, định giá… Mặt khác, số lượng nhân sự phòng khách hàng cá nhân còn ít, một cán bộ phải giải quyết quá nhiều khoản vay dẫn tới chất lượng thẩm định từng khoản vay có thể không cao.
2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan
Một là, môi trường kinh tế có nhiều biến động
Năm 2012 vẫn là một năm khó khăn của nền kinh tế nói chung và với ngành ngân hàng nói riêng. Tốc độ tăng trưởng GDP thấp nhất trong 20 năm trở lại với 5,03% (theo Thông cáo báo chí số liệu về tình hình kinh tế - xã hội năm 2012), thị trường bất động sản
48
chưa thể tan băng mà vẫn tiếp tục xuống đáy từ đó làm giảm nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư, đồng thời làm gia tăng nợ xấu, nợ quá hạn, ảnh hưởng không nhỏ đến việc cho vay tiêu dùng.
Hai là, tâm lý dân cư
Do yếu tố tâm lý của khách hàng miền Bắc, họ muốn dành dụm đủ để mua sắm tiêu dùng chứ không muốn đi vay để tiêu dùng trước. Hơn thế nữa, trong tình hình kinh tế trong nước còn gặp nhiều khó khăn, khách hàng hạn chế tiêu dùng xa xỉ, tạm dừng các khoản chi tiêu lớn, lo phòng thân nên cho vay tiêu dùng cũng khó phát triển. Họ không muốn chịu áp lực sống trong nợ nần khi nguồn thu nhập còn lại sau khi trang trải cuộc sống dùng để trả nợ còn nhiều bấp bênh. Thêm vào đó, khách hàng thường thích sự đơn giản trong thủ tục vay mượn, nhưng ngân hàng lại yêu cầu quá cao do hạn chế rủi ro tín dụng, vì đây là một lĩnh vực rủi ro cao, làm hạn chế việc mở rộng CVTD tại phòng giao dịch.
Ba là, sự cạnh tranh gay gắt từ các ngân hàng khác
Hiện nay, phòng giao dịch đang đứng trước sự cạnh tranh khá gay gắt với các đối thủ trên thị trường về các sản phẩm dịch vụ cũng như các tiện ích kèm theo khi cho vay tiêu dùng. Nếu trước kia trên địa bàn hoạt động của Phòng giao dịch chỉ có 3 NHTM quốc doanh thì nay Phòng giao dịch đang đứng trước sự cạnh tranh của 12 ngân hàng (Agribank, Vietinbank, Sacombank, MB, VPBank, Techcombank, ACB, SEA Bank, ABBank, Vietcombank, DongA Bank, Maritime Bank) và các quỹ tín dụng nhân dân. Đặc biệt các NHTMCP nhỏ với ưu thế chủ động đi trước trong lĩnh vực CVTD với thủ tục thông thoáng, các sản phẩm dịch vụ mới, hiện đại, chuyên biệt đang là một thách thức lớn đối với Chi nhánh.
Bốn là, chưa có văn bản pháp lý hướng dẫn cụ thể
Hiện tại các ngân hàng mới chỉ dựa vào các luật, quyết định, hướng dẫn chung về nghiệp vụ cho vay các ngân hàng phải tuân thủ quy định của ngân hàng, bảo đảm khi cấp tín dụng cho khách hàng: luật các TCTD, quyết định 1627 về quy chế cho vay của TCTD…, mà chưa có một văn bản quy phạm pháp luật mang tính thống nhất cụ thể hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ CVTD, các quy định về tài sản thế chấp, về định giá nhà, chuyển quyền sở hữu còn phức tạp… nên các ngân hàng còn chưa mạnh dạn phát triển sâu CVTD. Tất cả những điều đó đều ảnh hưởng tới doanh số cho vay tiêu dùng của ngân hàng.
Năm là, hệ thống kiểm soát thông tin khách hàng còn kém hiệu quả
Dù đã có Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng Nhà nước (CIC) là đơn vị duy nhất theo dõi lịch sử tín dụng của các cá nhân và doanh nghiệp vay vốn các Công ty tài chính và Tổ chức tín dụng, tuy nhiên khả năng cập nhật của CIC còn kém thể hiện ở việc nhiều khách
49
hàng đã có dư nợ tại tổ chức tín dụng khác nhưng không được cập nhật trong hệ thống CIC dẫn đến Ngân hàng thiếu thông tin khi ra quyết định cho vay, hoặc dễ dẫn đễn cho vay chồng chéo trong khi khách hàng không đủ khả năng trả nợ.
50
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG - PHÒNG GIAO DỊCH KIM LIÊN
3.1. Định hướng nâng cao hoạt động CVTD tại phòng giao dịch
3.1.1. Định hướng phát triển chung
Trên cơ sở bám sát chiến lược phát triển của NH TMCP Việt Nam thịnh vượng, VPBank Kim Liên đã đưa ra những chiến lược phát triển cho mình. Theo đó, định hướng phát triển hoạt động như sau:
Về hoạt động huy động vốn:
Tiếp tục thực hiện tốt công tác huy động vốn, đẩy mạnh thu hút tiền gửi dân cư với những dịch vụ thuận lợi và công nghệ hiện đại. Bởi đây vẫn là nguồn vốn nhàn rỗi, ổn định và lâu dài nhất tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Thực hiện điều hành tăng trưởng huy động theo nguyên tắc đảm bảo tổng lợi ích của khách hàng. Chủ động tìm kiếm các nguồn vốn có mức lãi suất thấp, hợp lý, phấn
Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, đặc biệt là các hình thức huy động kỳ hạn 12 tháng để nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trên cùng địa bàn. Đồng thời đảm bảo cân đối giữa cơ cấu huy động và cho vay.
Về hoạt động cho vay:
Xây dựng phòng giao dịch từng bước lớn mạnh, trở thành NHTM bán lẻ hiện đại hướng đến mọi đối tượng khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế trên địa bàn và vùng lân cận; phát triển an toàn, bền vững tín dụng bán lẻ phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân, hộ gia đình trên cơ sở mở rộng các kênh phân phối.
Tăng cường cho vay và tạo mối quan hệ tốt với khách hàng nhất là các khách hàng truyền thống. Bên cạnh đó tăng danh mục cho vay đối với các khách hàng này lên. Tiếp tục mở rộng cho vay đối với những khách hàng có dự án khả thi, các công trình trọng điểm, nhằm giữ vững và nâng cao chất lượng dư nợ. Vì đây là các khách hàng tiềm năng của Chi nhánh.
Phấn đấu tích cực giải quyết nợ tồn đọng, thu nợ treo. Tích cực triển khai các biện pháp để hoàn thành kế hoạch xử lý nợ tồn đọng của Ngân hàng. Quan tâm đến chất lượng các loại hình cho vay mới để đa dạng hoá và nâng cao sức cạnh tranh. Đồng thời giảm lãi suất cho vay, thực hiện các chương trình khuyến mại để khuyến khích khách hàng đến với Ngân hàng.
Thường xuyên kiểm tra giám sát hơn nữa hoạt động sử dụng vốn của khách hàng, tránh những hiện tượng khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, hạn chế rủi ro cho vay.
51