Vốn Tiền Gởi Là Nguồn Vốn Chủ Yếu Phục Vụ Cho Hoạt Động Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại

 Vai trò vốn huy động

Vốn huy động là nguồn vốn quan trọng trong việc tạo vốn đầu tư phát triển kinh tế và là vấn đề quan trọng trong kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cà Mau. Ngân hàng hoạt động kinh doanh đa năng để đáp ứng kịp thời yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình kinh doanh hiện nay. Vì vậy, vốn huy động là nguồn tài nguyên to lớn của ngân hàng do đó có vai trò quan trọng trong việc cung ứng nguồn vốn cho nguồn vốn.

2.1.6.2 Các hình thức huy động vốn

Nghiệp vụ huy động vốn là hoạt động tiền tệ có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, Ngân hàng thương mại cũng được sử dụng các biện pháp và công cụ cần thiết mà pháp luật cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế. Kết quả của nghiệp vụ nguồn vốn là tạo ra “nguồn tài nguyên” để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế. Hiện nay, ở nước ta có các hình thức huy động chủ yếu sau

 Mở tài khoản tiền gửi thanh toán không kỳ hạn cho khách hàng (tiền gửi hoạt kỳ)

Tiền gởi thanh toán không kỳ hạn là loại tiền gởi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc náo mà không cần báo trước cho ngân hàng và ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng, khách hàng cũng có quyền ký Séc thanh toán nên tài khoản này còn gọi là tài khoản giao dịch.

Ngành của khách hàng gởi tiền thanh toán nhằm để an toàn về tài sản thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doạnh và tiêu dùng tiện lợi trong việc thanh toán không dùng tiền mặt, đặc biệt được ngân hàng đáp ứng các dịch vụ của mình. Đối vợi loại tiền gởi này ngân hàng chỉ có thể sử dụng một tỷ lệ nhỏ để cho vay và đầu tư,... phần còn lại để đáp ứng nhu cầu khách hàng. Vì vậy thông thường ngân hàng áp dụng mức lãi suất thấp đối với loại tiền gởi này.

 Mở tài khoản tiền gửi thanh toán có kỳ hạn (định kỳ)

Các doanh nghiệp và cá nhân có những khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng có thể ký thác vào ngân hàng với hình thức tiền gởi có kỳ hạn, theo nguyên tắc đối với loại tiền gởi này thì khách hàng chỉ được rút ra khi đáo hạn. Tuy nhiên, do áp lực cạnh tranh mà ngân hàng thường cho phép khách hàng rút

tiền ra trước thời hạn với điều kiện người gởi tiền không được hưởng lãi suất hoặc chỉ được hưởng lãi suất theo tiền gởi không kỳ hạn tùy theo chính sách huy động vốn của mỗi ngân hàng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.

Đối với Ngân hàng, tiền gởi có kỳ hạn là nguồn vốn ổn định của ngân hàng, do đó lãi suất mà ngân hàng chi trả cho loại tiền gởi này cao hơn lãi suất tiền gởi thanh toán không kỳ hạn

Để khuyến khích khách hàng gởi tiền có kỳ hạn tai ngân hàng, có ngân hàng áp dụng nguyên tắc thời hạn càng dài lãi suất càng cao.

Phân tích hoạt động tín dụng tại ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh Cà Mau BIDV Cà Mau - 4

 Tiền gửi tiết kịêm

Là khoản tiền của cá nhân và hộ gia đình được gởi vào tài khoản tiền gởi tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định cuả ngân hàng nhận gởi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gởi

Đây là hình thức huy động tiền gởi theo kiểu truyền thống của ngân hàng. Đối với ngân hàng hình thức gởi tiền này tạo cho ngân hàng nguồn vốn ổn định. Mặc dù món tiền gởi từ cá nhân thường là nhưng do ngân hàng huy động số đông cá thể và hộ gia đình nên cũng đem lại cho ngân hàng nguồn vốn lớn để kinh doanh.

 Kỳ phiếu Ngân hàng có ngành

Kỳ phiếu ngân hàng có ngành là công cụ để huy động vốn vào ngân hàng do ngân hàng phát hành nhằm ngành kinh doanh nhất định trong một thời kỳ.

Kỳ phiếu ngân hàng có ngành là một loại giấy nhận nợ (chứng chỉ nhận nợ) nhằm huy động vốn trong dân cư một cách linh hoạt đáp ứng vốn đầu tư cho sản xuất, cho một số chương trình, một số dự án kinh tế hoặc kinh doanh của ngân hàng. Kỳ phiếu có ngành được phát hành bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ. Kỳ phiếu được bán cho mọi công dân Việt Nam và người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam, theo nguyên tắc tự nguyện. Ngân hàng đảm bảo việc thanh toán kỳ phiếu định kỳ cả vốn và lãi như đã ghi trên kỳ phiếu phát hành. Kỳ phiếu có các dạng như sau:

 Có ghi danh hoặc không có ghi danh người mua

 Kỳ phiếu có các loại kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng , 12 tháng và trên 12 tháng.

 Trả lãi sau hoặc trả lãi trước theo từng kỳ hạn

 Bằng VND hay USD

Kỳ phiếu được in ấn theo mẫu quy định chung trong toàn ngành và được quản lý chặt chẽ an toàn tuyệt đối đúng quy định của chế độ quản lý chứmg từ có giá

Căn cứ vào tình hình nguồn vốn phục vụ cho sản xuất và theo các dự án đầu tư mà ngân hàng đuợc phép phát hành kỳ phiếu hay không. Nếu được phép phát hành sẽ phải tiến hành thông báo hoặc quảng câo trên các phương tiện thông tin đại chúng

Ngân hàng thực hiện chiết khấu kỳ phiếu nếu chủ sở hữu muốn bán lại cho Ngân hàng, giá chiết khấu được niêm yết tại các đơn vị trực thuộc của ngân hàng.

Ngân hàng phải đãm bảo thanh toán đủ số tiền mệnh giá ghi trên tờ phiếu cho sở hữu hợp pháp của kỳ phiếu khi đến hạn. Ngày đến hạn là ngày ghi trên tờ phiếu.

 Trái phiếu Ngân hàng

Trái phiếu Ngân hàng là công cụ huy động vốn dài hạn vào Ngân hàng nó là một loại chứng khoán có thể mua bán trên thị trường chứng khoán. Ở nước ta trái phiếu thường có kỳ hạn một năm trở lên.

Trái phiếu Ngân hàng là giấy chứng nhận nợ người đầu tư vốn, người sử dụng trái phiếu được hưởng thu nhập ( trả lãi) trên số tiền mua trái phiếu và được trả lại gốc khi đến thời hạn của trái phiếu.

Trái phiếu thường có các hình thức sau:

 Phát hành trái phiếu cho từng công trình, từng dự án.

 Phát hành trái phiếu trên từng địa bàn lãnh thổ để tạo vốn đầu tư cho một số dự án, công trình

2.1.6.3 Vốn tiền gởi là nguồn vốn chủ yếu phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại

Ngân hàng là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt là kinh doanh tiền tệ với 2 nghiệp vụ cơ bản là nhận ký thác của các cơ quan, tổ chức nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân; và sử dụng các khoản ký thác để cho vay hoặc chiết khấu. Vì vậy, bên cạnh các nguồn vốn khác thì vốn huy động là nguồn vốn chủ

yếu của Ngân hàng nó là nguồn vốn đem lại lợi nhuận rất lớn cho Ngân hàng. Để có thể canh tranh trên thị trường thì các ngân hàng không ngừng gia tăng vốn huy động để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của khách hàng vì nguồn vốn của ngân hàng thì có hạn. Và khi nhìn vào nguồn vốn huy động ta có thể đánh giá được sức mạnh uy tín và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng đó trên thị trường.

Bên cạnh việc gia tăng đầu vào tức là huy động vốn thì các Ngân hàng phải tìm đầu ra tức là phải cho vay hoặc đầu tư thì nguồn vốn huy động đó mới thực sự đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Ngân hàng phải đảm bảo cân đối giữa đầu vào và đầu ra, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng đóng băng vốn, không trả được lãi cho khách hàng dẫn đến thua lỗ kém hiệu quả. Làm thế nào để đem lại lợi nhuận ngày càng cao đó còn là một nghệ thuất của mỗi Ngân hàng.

2.1.6.4 Các nguyên tắc trong việc quản lý tiền gởi

Ngân hàng phải đảm bảo thanh toán kịp thời cho khách hàng, để thực hiện được nguyên tắc này Ngân hàng chỉ được sử dụng một tỷ lệ nhất định tiền gởi để cho vay số còn lại để làm quỹ dự trữ thanh toán.

Trong quỹ dự trự Ngân hàng gồm có:

 Tiền mặt

 Ngân phiếu thanh toán

 Tiền gởi thanh toán tại Ngân hàng Nhà Nước.

 Tiền gởi dự trữ bắt buộc

 Tín phiếu kho bạc

Ngân hàng phải đảm bảo tương ứng về nguồn vốn và sử dụng vốn, tuy nhiên nguyên tắc này chỉ có tính tương đối vì Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn vì tuy là nguồn vốn ngắn hạn khi xét trong một chu kỳ dài thì nó luôn tồn tại trong Ngân hàng nên trỏ thành nguồn vốn dài hạn hay nguồn vốn ổn định trong Ngân hàng.

Ngân hàng chỉ được thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tài khoản tiền gởi của khách hàng khi có lệnh của chủ tài khoản hoặc sự ủy nhiệm của chủ tài khoản, trong trường hợp chủ tài khoản vi phạm kỷ luật thanh toán hoặc yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền buộc chủ tài khoản phải thanh toán thì Ngân hàng được quyền tự động trích tài khoản tiền gởi của khách hàng để thực hiện các nghiệp vụ có liên quan.

Ngân hàng phải đảm bảo an toàn bí mật cho chủ tài khoản

Ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ thanh toán của khách hàng đảm bảo lập đúng thủ tục quy định của Ngân hàng, Ngân hàng kiểm tra chữ ký, con dấu nếu không phù hợp Ngân hang được quyền từ chối thanh toán.

Khi có phát sinh các khoản giao dịch liên quan đến tài khoản khách hàng thì Ngân hàng kịp thời gởi giấy báo cóm, báo nợ cho chủ tài khoản, cuối tháng phải gởi bản sao tài khoản hoặc giấy báo dư cho chủ tài khoản biết.

2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.2.1 Phương pháp thu thập số liệu:

Tổng hợp từ lí thuyết đến quan sát thực tế, nguồn số liệu sử dụng được từ các báo cáo tổng hợp của ngân hàng

Thu thập những thông tin có liên quan đến vấn đề nghiên cứu từ các từ sách báo, tạp chí, tài liệu, từ mạng internet, ...

2.2.2 Phương pháp phân tích:

Phương pháp so sánh: dựa trên số liệu để so sánh năm nay với năm trước nhằm thấy được xu hướng thay đổi của ngân hàng, xem nó được cải thiện, đứng yên hay xấu đi để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời

Phương pháp so sánh tương đối:


T2 – T1

T =

T1

Trong đó: T1 là số liệu năm trước

T2 là số liệu năm

T = T2 – T1

T là tốc độ tăng trưởng của năm sau so với năm trước (%) Phương pháp so sánh số tuyệt đối:


Trong đó: T1 là số liệu năm trước

T2 là số liệu năm sau

T là chênh lệch tăng, giảm của các số liệu kinh tế


Chương 3

KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH CÀ MAU


3.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH CÀ MAU

3.1.1 Tổng quát về Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Ngân Hàng Đầu Tư &Phát Triển Việt Nam là Doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, giữ vai trò chủ đạo về lĩnh vực đầu tư và phát triển, là Ngân hàng chuyên ngành về lĩnh vực đầu tư phát triển được thành lập sớm nhất tại VN, đã có 46 năm hoạt động và trưởng thành. Có chức năng huy động vốn dài hạn, trung hạn và ngắn hạn trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển. Kinh doanh đa năng tổng hợp về tiền tệ, tín dụng, dịch vụ Ngân hàng và phi Ngân hàng, làm Ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ cho đầu tư phát triển từ các nguồn của chính phủ, các tổ chức kinh tế tài chính tiền tệ, các tổ chức kinh tế xã hội, đoàn thể, cá nhân trong và ngoài nước .

Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam được thành lập theo nghị định số 177/TTg ngày 26/04/1957 của Thủ tướng chính phủ và được thành lập lại theo mô hình tổng công ty nhà nước qui định tại quyết định số 90/TTg ngày 07/03/1994 của Thủ tướng chính phủ.

46 năm qua Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam đã có tên gọi :

- Ngân Hàng Kiến thiết Việt Nam: 26/04/1957

- Ngân Hàng Đầu Tư&Xây Dựng Việt Nam: từ 24/06/1981

- Ngân Hàng Đầu Tư&Phát Triển Việt Nam: từ 14/11/1990

46 năm hoạt động xây dựng trưởng thành và đổi mới của Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam gắn liền với những giai đoạn lịch sử của đất nước VN, trong 46 năm qua Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam đã lập nhiều thành tích góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc .

Từ những năm 90 trở về trước, nguồn vốn hoạt động của Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam chủ yếu là của ngân sách nhà nước. Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc cấp vốn ngân sách

và quản lý có hiệu quả nguồn vốn đó. Hàng nghìn công trình then chốt của nền kinh tế quốc dân, từ các công trình hạ tầng cơ sở đến các công trình sản xuất ra của cải vật chất đều do Ngân Hàng ĐT&PT Việt Nam đảm nhiệm và phục vụ tốt, phục vụ đắc lực và có hiệu quả cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ giai đoạn lịch sử.

Nhất là từ năm 1990 trở lại đây, sau khi có 2 pháp lệnh về Ngân hàng. Ngân Hàng ĐT&PT Việt Nam đã thực hiện thành công những thử nghiệm hết sức quan trọng của Đảng, nhà nước và của ngành Ngân hàng về chống bao cấp trong đầu tư, cũng như trong hoạt động Ngân hàng. Trong quá trình đổi mới và phát triển, Ngân Hàng ĐT&PT Việt Nam đã trưởng thành nhanh chóng, đạt được những thành tích đáng khích lệ. Luôn lấy hiệu quả, an toàn của sản xuất kinh doanh làm mục tiêu góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước, ổn định tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo được niềm tin, chữ tín của khách hàng trong nước và ngoài nước.

3.1.2 Tổng quát về Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Cà Mau

3.1.2.1 Lịch sử hình thành Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chi nhánh Cà Mau

Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chi nhánh Cà Mau là thành viên của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam, tên giao dịch quốc tế là Bank For Investment and Development Of VietNam Ca Mau Branch viết tắt là BIDV Cà Mau. Tiền thân của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cà Mau là Ngân hàng Đầu tư và xây dựng tỉnh Minh Hải với hoạt động chủ yếu là cấp phát vốn Ngân sách Trung ương, địa phương cho các công trình theo kế hoạch Nhà nước và cho vay vốn lưu động trong lĩnh vực xây lắp.

Chấp hành Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội Đồng Bộ Trưởng về chuyển hoạt động Ngân hàng sang hạch toán kinh doanh. Tại thời điểm này, theo quyết định của cấp có thẩm quyền Ngân hàng Đầu tư và xây dựng tỉnh Minh Hải chuyển cấp phát vốn Ngân sách địa phương sang Sở tài chính tỉnh Minh Hải. Do đó Ngân hàng Đầu tư và xây dựng tỉnh Minh Hải xáp nhập vào Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Minh Hải, tiếp tục nhiệm vụ cấp phát vốn Ngân sách Trung ương và cho vay vốn lưu động trong lĩnh vực xây lắp.

Ngày 01/04/1990 thành lập phòng Đầu tư và Phát triển tỉnh Minh Hải tại quyết định số 10QĐ/TCCB của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam với nhiệm vụ chính là thực hiện chủ trương của Nhà nước chuyển dần cấp phát vốn Ngân sách sang cho vay lãi suất ưu đãi nhằm tăng hiệu quả đầu tư các công trình được xây dựng theo kế hoạch Nhà nước và cấp phát vốn Ngân sách Trung ương. Ngày 26/11/1990 theo Quyết định số 105NH/QĐ của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thành lập Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Minh Hải.

Đầu năm 1995, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Minh Hải chuyển một phần đầu tư tín dụng theo kế hoạch Nhà nước và cấp phát vốn Ngân sách Trung ương cho Cục Đầu tư phát triển Minh Hải, Ngân hàng giảm thị phần tín dụng đầu tư các dự án.

Kỳ họp thứ 10 ngày 12 tháng 11 năm 1996 Quốc hội khóa IX quyết định phân chia địa giới tỉnh Minh Hải thành 2 tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu vào thời điểm ngày 01/01/1997. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Cà Mau được tách ra từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Minh Hải cũ theo Quyết định thành lập lại số 263/QĐ/TCCB ngày 20/12/1996 của Tổng Giám Đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Việc tách Tỉnh dẫn đến một số khó khăn trong hoạt động của Ngân hàng:

Về nguồn nhân lực: Điều chuyển một số cán bộ chủ chốt, có năng lực và tuyển dụng mới những cán bộ chưa có kinh nghiệm.

Về thị phần tín dụng: Phân chia thị phần tín dụng cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bạc Liêu.

Tuy nhiên, với số lượng cán bộ có trình độ chính trị, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý nghiệp vụ ngày càng được nâng cao và luôn thể hiện tính năng động, sáng tạo phát huy sáng kiến kỹ thuật ứng dụng khoa học trong mọi lĩnh vực công tác, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cà Mau đã phục vụ tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, các yêu cầu chỉ đạo, lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương góp phần thúc đẩy nền kinh tế địa phương không ngừng phát triển.

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cà Mau phấn đấu và tự hào được sinh ra và trưởng thành gắn liền với sự phát triển không ngừng trong sự nghiệp đổi mới chung của Tỉnh.

Xem tất cả 94 trang.

Ngày đăng: 13/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí