Các Hình Thức Huy Động Vốn Của Ngân Hàng Bán Lẻ


việc ngân hàng chọn thời điểm để đưa ra sản phẩm mới, quyết định giảm phí, tăng lãi suất hay có chương trình khuyến mại khi gửi tiết kiệm đầu năm, miễn phí phát hành thẻ cho sinh viên khi năm học mới bắt đầu hay khách hàng thường chi tiêu thẻ nhiều vào những ngày nghỉ, lễ… Tính thời điểm còn thể hiện ở tính cập nhật thông tin về sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, các tiện ích đính kèm và đặc biệt các vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của khách hàng, cập nhật các thông tin về cá nhân khách hàng khi có sự thay đổi.

1.1.2.6. Dịch vụ ngân hàng bán lẻ có những rủi ro

Trên thực tế, các ngân hàng đang phải chịu rủi ro trong quá trình kinh doanh nói chung và dịch vụ bán lẻ nói riêng, đó là khả năng xảy ra những sự cố trong tuơng lai làm cho ngân hàng không thể đạt được mục tiêu đã đề ra hoặc gây tổn thất cho ngân hàng. Số lượng giao dịch của NHBL là rất lớn nên những rủi ro đó luôn tồn tại, không thể loại trừ ra khỏi môi trường kinh doanh, ngân hàng chỉ có thể phân tích, tìm ra các nguyên nhân, có giải pháp phòng ngừa, hạn chế sự tác động của rủi ro tới hoạt động kinh doanh.

Dịch vụ ngân hàng bán lẻ nói riêng đa dạng nhưng tập trung cụ thể vào những nhóm sản phẩm đặc trưng

1.1.3. Vai trò của dịch vụ ngân hàng bán lẻ

Đối với khách hàng và nền kinh tế:

- Thông qua hoạt động dịch vụ ngân hàng bán lẻ làm tăng quá trình luu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế, khai thác và sử dụng các nguồn vốn trong nền kinh tế thêm hiệu quả, làm tăng luân chuyển tiền tệ trong không gian và thời gian. Khối lượng tiền tệ di chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ khách hàng này sang khách hàng khác, đáp ứng các nhu cầu cho hoạt động kinh tế xã hội. Góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tiêu dùng, góp phần vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Góp phần tích cực trong việc mang lại lợi ích chung cho nền kinh tế, cho khách hàng và ngân hàng thông qua việc giảm chi phí nhờ sự tiện ích và chuyên môn hoá của từng loại dịch vụ: giảm chi phí in ấn, kiểm đếm, bảo quản, vận chuyển


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.

tiền, cũng như tiết kiệm nhân lực để thực hiện, giảm chi phí dịch vụ, giúp khách hàng có nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm dịch vụ.

- Tạo nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia từ các nguồn kiều hối từ nước ngoài chuyển về.

Phân tích hoạt động dịch vụ và giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Ninh Bình - 3

- Đối với khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ: tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành trôi chảy, nhịp nhàng, thúc đẩy đồng vốn luân chuyển nhanh, góp phần đẩy nhanh tốc độ sản xuất, luân chuyển hàng hoá.

- Góp phần chống tham nhũng, gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế. Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán được Nhà nước khuyến khích trong giao dịch sản xuất kinh doanh. Việc thanh toán bằng tiền mặt dẫn đến tình trạng tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế vì luồng tiền khi thanh toán qua tài khoản ngân hàng được thể hiện đầy đủ trên sổ sách, chứng từ kế toán, thể hiện đầy đủ các khoản thu của doanh nghiệp nhất là những doanh nghiệp nhỏ, các doanh nghiệp bắt buộc phải hạch toá đầy đủ doanh thu phát sinh và thuế giá trị gia tăng đầu ra, thuế thu nhập doanh

nghiệp phải nộp.

- Việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng bán lẻ trên nền tảng công nghệ tiên tiến, hiện đại giúp người dân làm quen và không còn cảm thấy xa lạ với những khái niệm ngân hàng tự động, ngân hàng không người, ngân hàng ảo.

Đối với ngân hàng:

- Đem lại cho ngân hàng khoản thu nhập lớn về phí dịch vụ. Phát triển dịch vụ đa dạng, nhiều tiện ích theo hướng cải tiến phương thức thanh toán, đơn giản hoá thủ tục, mở rộng mạng lưới hoạt động. Bên cạnh đó ngân hàng có thể phát triển những dịch vụ hỗ trợ như dịch vụ chi trả lương cho những người có tài khoản tại nhiều ngân hàng khác nhau, chuyển tiền mặt giao dịch tận tay người nhận…sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng, từ đó làm tăng nguồn thu dịch vụ của ngân hàng.

- Tận dụng được nguồn vốn trong thanh toán của khách hàng đang lưu ký trên tài khoản thanh toán, ký quỹ. Những tài khoản này ngân hàng không phải trả lãi


hoặc trả lãi thấp làm cho chi phí đầu vào của nguồn vốn huy động giảm xuống tạo ra sự chênh lệch lớn giữa lãi suất bình quân cho vay và lãi suất bình quân tiền gửi.

- Xây dựng được mạng lưới khách hàng đa dạng, rộng khắp làm nền tảng để

phát triển các dịch vụ ngân hàng.

1.2. Phân loại dịch vụ ngân hàng bán lẻ

Hiện nay có nhiều cách phân loai dịch vụ ngân hàng bán lẻ, nhưng thông dụng và phổ biến hơn cả là cách phân loại dựa trên hoạt động của ngân hàng bán lẻ. Theo đó dịch vụ ngân hàng bán lẻ được phân thành 3 mảng lớn:

Dịch vụ huy động vốn Dịch vụ tín dụng Dịch vụ thanh toán

Dịch vụ huy động vốn:

Huy động vốn có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động ngân hàng. Nó tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng để thực hiện các hoạt động tạo ra thu nhập cho ngân hàng như tín dụng hay thanh toán của ngân hàng.

Dịch vụ tín dụng:

Đây là hoạt động sinh lời chủ yếu cho ngân hàng. Như đã biết, một trong những chức năng đầu tiên và cơ bản của NHTM, đó là làm cầu nối giữa những đối tượng khách hàng chưa co nhu cầu sử dụng vốn với những đối tượng có nhu cầu sử dụng vốn nhưng thiếu vốn. Hoạt động tín dụng chính là thực hiện mắt xích thứ 2, dẫn vốn đến nơi đang “khát vốn”.

Dịch vụ thanh toán:

Ngoài nhiệm vụ cơ bản của NHTM, huy động vốn và tín dụng, NHTM còn có hoạt đồng thanh toán, góp phần thực hiện mục tiêu chung của xã hội: hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.

1.3. Dịch vụ huy động vốn:

Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện được những hoạt động khác của ngân hàng như cấp tín dụng


hay hoạt động thanh toán và cung cấp các dịch vụ khác của ngân hàng. Ngân hàng có thể huy động vốn thông qua các hình thức:

Nhận tiền gửi từ cá nhân và các tổ chức tín dụng khác thông qua các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác

Phát hành chứng chỉ tiền gửi , trái phiếu và các giấy tờ có giá để huy động vốn từ các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước khi được thống đốc ngân hàng nhà nước chấp thuận

Vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức tín dụng nước ngoài

Vay vốn ngắn hạn của ngân hàng nhà nước theo quy định của luật ngân hàng nhà nước

Tuy nhiên, trong phạm vị nghiên cứu về dịch vụ ngân hàng bán lẻ, hoạt động huy động vốn ở đây chỉ xét đến đối tượng ngân hàng hướng tới để huy động vốn đó là cá nhân và các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hay nói cách khác huy động vốn mang tính chất “mua lẻ”

1.3.1. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng bán lẻ

Các ngân hàng bán lẻ tập trung huy động vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp khu vực dân cư và một bộ phận vốn nhàn rỗi của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các hình thức huy động bao gồm:

1.3.1.1. Thông qua phát hành các giấy tờ có giá dài hạn và ngắn hạn:


Các ngân hàng huy động thông qua các hình thức phát hành GTCG này chủ yếu là huy động vốn trong một thời gian nhất định đến ngân hàng và sẽ thanh toán cho chủ sở hữu GTCG, nếu khách hàng không thanh toán ngân hàng sẽ giữ hộ và tính lãi không kỳ hạn cho thời gian quá hạn thanh toán. Các ngân hàng thường huy động vốn cho các dự án cụ thể nào đó. Cách huy động này lãi suất thường cao hơn lãi suất tiết kiệm thông thường do vậy ngân hàng bán lẻ không thường xuyên phát hành mà tùy theo việc đầu tư các dự án hoặc cơ cấu lại nguồn vốn huy động để phát hành, thời gian phát hành tối đa là 60 ngày


1.3.1.2. Huy động tiền gửi:

Các NHBL tập trung huy động tiền gửi trong các tầng lớp dân cư và tiền nhàn rỗi trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Tiền tiết kiệm trong dân cư: Trước đây chỉ có tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn, ngày nay do công nghệ cao việc huy động vốn dân cư ngày càng đa dạng và linh hoạt hơn như tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm rút gốc linh hoạt, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm an sinh, tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm điện tử, tiết kiệm bảo hiểm… Loại huy động này khách hàng là những người dân có số tiền nhàn rỗi đem gửi tiết kiệm nhằm mục đích sinh lời. Số người gửi tiết kiệm thường rất đông thời hạn khác nhau, thời gian đáo hạn khác nhau do đó là nguồn vốn huy động ổn định. Vì vậy nguồn này rất quan trọng trong việc kinh doanh của NHBL.

Tiền gửi từ các doanh nghiệp (Tổ chức kinh tế) gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi có kỳ hạn.

Tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tài khoản vãng lai.

Là khoản tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm mục đích thanh toán. Khách hàng có quyền yêu cầu ngân hàng trích từ tài khoản của mình để chi trả cho người hưởng là người cung cấp hàng hóa hoặc cung ứng lao vụ. Thường khách hàng thanh toán qua phát hành séc, hoặc qua lệnh chi. Đối với ngân hàng đây là một khoản tiền gửi mà ngân hàng chỉ phải trả chi phí thấp, đồng thời được thu phí thanh toán khi khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Nếu NHBL thu hút được lượng khách hàng lớn thì sẽ có một nguồn vốn lớn ổn định, lãi suất phải trả thấp. Ngân hàng có thể sử dụng vốn này để cho vay ngắn hạn hoặc thậm chí là dài hạn, bởi khách hàng không bao giờ thanh toán hết toàn bộ tiền gửi cùng một lúc.

Huy động tiền gửi phi giao dịch

Nguồn vốn trên các tài khoản phi giao dịch của khách hàng là những khoản tiền nhàn rỗi. Tài khoản này có đặc điểm chung là sử dụng chúng được hưởng lãi nhưng không có quyền phát hành séc cho nhu cầu thanh toán.

Huy động tiền gửi có kỳ hạn.

Đây là loại tiền nhàn rỗi của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế được


gửi vào ngân hàng, khách hàng chỉ được rút ra sau một thời gian nhất định tùy theo kỳ hạn gửi, mục đích để hưởng lãi, nguồn vốn này tương đối ổn định. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này để cho vay trung hạn.

1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn:

1.3.2.1. Nhân tố khách quan:

Nhân tố khách quan là những nhân tố không chịu sự quản lý của ngân hàng nhưng ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Những thay đổi của nhân tố này có thể đem đến “hiểm hoạ” hoặc “cơ hội” cho ngân hàng. Về phía ngân hàng không thể kiếm soát hay thay đổi được nó nhưng cần phải dự báo được sự biến động của nó để có những điều chỉnh hoạt động của ngân hàng phù hợp với sự thay đổi của môi trường.

Hành lang pháp lý:

Cũng giống những tổ chức tín dụng khác hoạt động trong nền kinh tế, ngân hàng cũng chịu sự quản lý chặt chẽ của luật pháp và cơ quan quản lý chức năng của chính phủ. Mọi vấn đề liên quan đến sự hình thành, hoạt động của ngân hàng đều được quy định rõ ràng bằng các văn bản pháp luật. Sự thay đổi của một quy định pháp lý trong một thời kỳ đều mang đến cho ngân hàng những cơ hội, thách thức mới. Trong quá trình hoạt động ngân hàng không chỉ chịu sự quản lý của luật ngân hàng mà còn chịu sự tác động của nhiều bộ luật khác có liên quan: luật dân sự, luật các tổ chức tín dụng, luật doanh nghiệp,…và các văn bản pháp quy của nhà nước. Mọi hoạt động, điều chỉnh của ngân hàng đều dựa trên hay căn cứ từ những quy định pháp lý.

Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước:

Môi trường kinh tế, xã hội cũng ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cao khi đó thu nhập của người dân tăng lên, dẫn đến họ tích luỹ được nhiều hơn. Ngược lại, nền kinh tế suy thoái lượng tiền gửi tiết kiệm sẽ giảm xuống.

Sự ổn định của nền kinh tế cũng là một yếu tố quyết định đến việc gửi tiền

của người dân. Nếu như nền kinh tế tăng trưởng bất ổn định, giá cả và sức mua của


tiền tệ biến động phức tạp, lạm phát xảy ra thì phản ứng của người dân đó là họ có xu hướng ưu tiến cho kênh đầu tư tích trữ vàng, mua ngoại tệ hoặc các dạng tài sản khác. Ngược lại, khi nền kinh tế ổn định, người dân lại gửi tiết kiệm nhiều hơn, khi đó nguồn vốn của ngân hàng lại tăng lên.

Ngoài ra, những chính sách trong việc điều tiết vĩ mô của nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng bán lẻ. Các chính sách như: chính sách thuế, chính sách tỷ giá, xuất nhập khẩu đều có tác động hai mặt đến quá trình huy động vốn từ dân cư. Ví như nếu nhà nước có chủ trương tăng mức thuế thu nhập cá nhân, thu nhập khả dụng giảm xuống. Ngược lại, thuế thu nhập cá nhân giảm xuống, nguồn vốn huy động từ dân cư sẽ tăng lên.

Tâm lý thói quen tiêu dùng của người gửi tiền:

Thói quen tiêu dùng của nguời dân cũng ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn từ phía khu vực này. Thói quen tiêu dùng tiền mặt hay thanh toán không dùng tiền mặt cùng với mức thu nhập của người dân sẽ tác động đến mức độ tiết kiệm và hính thức tiết kiệm của dân cư.

1.3.2.2. Yếu tố chủ quan:

Nhân tố chủ quan ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động huy động vốn của ngân hàng bán lẻ. Hoạt động huy động vốn của NHBL cao hay thấp phụ thuộc vào việc ngân hàng quản lý và sử dụng các nhân tố này. Những nhân tố chủ quan bao gồm:

Cơ sở vật chất và đội ngũ công nhân viên làm công tác huy động vốn:

Cơ sở vật chất thể hiện mức độ hiện đại, tốc độ xử lý giao dịch của giao dịch viên một phần thể hiện ở tốc độ đường truyền, hệ thống mạng và máy tính có hiện đại hay không của ngân hàng. Điều này ảnh hưởng đến độ hài lòng của khách hàng khi đến gửi tiền tại ngân hàng. Khách hàng hài lòng thì họ có xu hướng tiếp tục đến với ngân hàng khi họ có nhu cầu.

Trình độ, phong cách làm việc của cán bộ huy động vốn ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. Việc cán bộ huy động vốn niềm nở, nhiệt tình, hiểu biết vè hệ thống sản phẩm huy động vốn của ngân hàng sẽ


tư vấn được cho khách hàng sản phẩm phù hợp, giúp họ hài lòng và thoải mái khi

chọn ngân hàng là nơi gửi tiền.

Mức độ đa dạng, hấp dẫn của những sản phẩm huy động vốn:

Nhu cầu dân cư là đa dạng. Do đó, ngân hàng nào có cơ cấu sản phẩm, dịch

vụ đa dạng sẽ thu hút được nhiều vốn từ dân cư.

Sự đa dạng của cơ cấu sản phẩm, dịch vụ thể hiện ở chỗ đa dạng về kỳ hạn và hình thức huy động vốn. Một cá nhân chỉ có một khoản tiền nhàn rỗi và đều mong muốn có được một khoản lợi nhuật nhất định khi gửi tiền vào ngân hàng. Khoản tiền này chỉ có được trong một thời gian nhất định. Do đó, nếu ngân hàng không có kỳ hạn phù hợp với khách hàng, khoản tiền đó sẽ không được gửi vào ngân hàng nữa. Hiện nay, ngân hàng thương mại đã có những kỳ hạn hết sức đa dạng từ 01 đến 12 tháng, tiết kiệm rút gốc siêu linh hoạt, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm linh hoạt. Ngoài việc huy động theo phương thức tiết kiệm, các ngân hàng thương mại còn huy động theo hình thức mở tài khoản cá nhân, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Từ đây, ngân hàng đã thu được những kết quả đáng kể.

Chính sách lãi suất:

Mục đích đầu tiên và chủ yếu khi gửi tiền vào ngân hàng là sinh lời. Do vậy, điều đầu tiên mà họ quan tâm là lãi suất huy động. Lăi suất huy động là tỷ lệ % của số tiền có được so với tiền gốc mà người g.ửi tiền nhận được từ ngân hàng. Lăi suất

càng cao th́ người gửi tiền càng bị hấp dẫn. Tuy nhiên, lăi suất lại cn gắn với vấn đề

lợi nhuận và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàn. Khi lăi suất huy động cao th́ ngân hàng phải tăng lăi suất cho vay nếu như không muốn làm giảm khoản thu

nhập của mnh. Và điều đó sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng.

Như vậy, yêu cầu đặt ra đối với các ngân hàng đó là phải đưa ra được mức lăi suất huy động đủ cao để thu hút khách hàng gửi tiền nhưng không được quá cao, để vẫn có thể thu hút được khách hàng đi vay mà không làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.

Một mức chính sách lăi suất hợp lư phải đảm bảo được các yếu tố như: mức rủi ro và lợi nhuận mang lại từ các khoản đầu tư, các quy định của nhà nước về lăi suất cho vay, tỷ lệ lạm phát, sự biến động của tỷ giá, thời gian đáo hạn của các

Xem tất cả 138 trang.

Ngày đăng: 04/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí