tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của đất nước lại chính là khối lượng vốn đầu tư trong nước.
Nói như vậy để thấy một điều là : Nguồn vốn huy động trong nước và nguồn vốn huy động từ nước ngoài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thông qua nhiều cơ chế tác động, cả trực tiếp và gián tiếp, nguồn vốn nước ngoài có tác dụng rất lớn làm cho nguồn vốn trong nước tăng lên cả về quy mô và hiệu quả sử dụng. Đồng thời, các nguồn vốn trong nước cũng tác động tích cực trở lại đối với nguồn vốn nước ngoài.
- Nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Xét về lâu dài thì nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn và không phụ thuộc phải là nguồn vốn đầu tư huy động được ở trong nước. Quy mô của nguồn vốn trong nước là nhân tố cơ bản cho phát triển kinh tế. Quy mô và hiệu quả sử dụng vốn trong nước là động lực cho tăng trưởng kinh tế và qua đó thể hiện tiềm năng phát triển kinh tế của một quốc gia. Đối với các định chế tài chính và các nhà đầu tư nước ngoài, đây là tiêu chí hàng đầu để cho vay vốn hoặc đầu tư trực tiếp. Sự tác động của vốn đầu tư trong nước đối với sự tăng hay giảm của đầu tư nước ngoài còn thể hiện ở chỗ : Các nguồn vốn trong nước, đặc biệt là nguồn vốn của ngân sách nhà nước được sử dụng để xây cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng càng hiện đại, càng đồng bộ thì hoạt động đầu tư càng thuận lợi và khi đó dòng vốn chảy vào càng nhiều.
- Nguồn vốn huy động từ nước ngoài đã tác động trở lại đối với nền kinh tế Việt Nam một cách tích cực và tác động không nhỏ tới nguồn vốn trong nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra tốc độ tăng trưởng GDP. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn tạo ra một khối lượng lớn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Đây chính là nguồn gốc của tích luỹ để tăng vốn cho đầu tư. Mặt khác, đời sống của người lao động được cải thiện, những nhu cầu thiết yếu được đáp ứng tốt hơn, các nhu cầu cao hơn nảy sinh, mở ra những cơ hội lớn đối với các nhà sản xuất. Nói một cách khác, nó góp phần kích thích các nhà cung ứng tăng tích luỹ để mở rộng quy mô sản xuất nhằm mục tiêu lợi nhuận. Với sự có mặt của nguồn vốn nước ngoài, tính hiệu quả trong hoạt động thị trường Việt Nam được cải thiện và qua đó tác động tích cực đến nguồn vốn trong nước.
Vốn huy động trong nước và vốn huy động từ nước ngoài có mối quan hệ khăng
khít với nhau, hỗ trợ nhau cùng gia tăng về số lượng và hiệu quả sử dụng.
1.3. Du lịch và vai trò của việc thu hút vốn đầu tư vào du lịch
1.3.1. Một số khái niệm liên quan đến du lịch
Có thể bạn quan tâm!
- Phân tích các nhân tố tác động đến thu hút vốn đầu tư cho du lịch tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu - 1
- Phân tích các nhân tố tác động đến thu hút vốn đầu tư cho du lịch tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu - 2
- Sơ Đồ Dòng Tiết Kiệm Và Đầu Tư
- Phân tích các nhân tố tác động đến thu hút vốn đầu tư cho du lịch tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu - 5
- Thực Trạng Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Du Lịch Tại
- Đánh Giá Chung Về Tình Hình Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Du Lịch Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Xem toàn bộ 158 trang tài liệu này.
1.3.1.1 Khái niệm về du lịch
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, về định nghĩa du lịch, một số tổ chức quốc tế và các nhà nghiên cứu từ các góc độ khác nhau đã đưa ra nhiều định nghĩa về du lịch.
Theo Tổ chức du lịch thế giới đã đưa ra định nghĩa “Du lịch bao gồm những hoạt động của những người đi đến một nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình trong thời hạn không quá một năm liên tục để vui chơi, vì công việc hay vì mục đích khác không liên quan đến những hoạt động kiếm tiền ở nơi mà họ đến”..
Còn theo Luật Du lịch Việt Nam (2005), du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
Để tránh sự hiểu lầm và không đầy đủ về du lịch, chúng ta tách du lịch thành hai phần để định nghĩa nó. Du lịch có thể được hiểu là:
- Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ của các cơ sở chuyên cung ứng.
- Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh.
1.3.1.2. Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực : cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó.
Sản phẩm du lịch chủ yếu thỏa mãn nhu cầu thứ yếu cao cấp của du khách. Mặc dù trong suốt chuyến đi họ phải thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu như ăn, ở, đi lại,.. Tuy nhiên mục đích chính là thỏa mãn các nhu cầu đặc biệt. Do đó, nhu cầu du lịch chỉ được đặt ra khi người ta có thời gian nhàn rỗi và có thu nhập cao.
Sản phẩm du lịch có đầy đủ 4 đặc điểm của dịch vụ là :
- Tính vô hình : sản phẩm du lịch về cơ bản là vô hình. Thực ra nó là một kinh nghiệm du lịch hơn là một món hàng cụ thể mặc dù trong cấu thanh sản phẩm du lịch có hàng hóa.Sản phẩm du lịch là không cụ thể nên rất dễ dàng bị sao chép, bắt chước (những chương trình du lịch, các trang trí phòng đón tiếp, ..). Việc làm khác biệt hóa sản phẩm mang tính cạnh tranh khó khăn hơn kinh doanh hàng hóa.
- Tính không đồng nhất : do sản phẩm du lịch chủ yếu là dịch vụ nên khách hàng không thể kiểm tra sản phẩm trước khi mua, gây khó khăn cho việc chọn sản phẩm. Vì vậy, vấn đề quảng cáo trong du lịch rất quan trọng.
- Tính đồng thời giữa sản xuất và tiêu dùng : việc tiêu dùng sản phẩm du lịch xảy ra cùng một thời gian và địa điểm sản xuất ra chúng. Do đó không thể đưa sản phẩm du lịch đến khách hàng mà khách hàng phải tự đến nơi sản xuất ra sản phẩm du lịch.
- Tính mau hỏng và không dự trữ được : sản phẩm du lịch chủ yếu là dịch vụ như dịch vụ vận chuyển, lưu trú và ăn uống nên về cơ bản sản phẩm du lịch không thể tồn kho, dự trữ được và rất dễ hư hỏng.
1.3.1.3. Tài nguyên du lịch
Khái niệm tài nguyên du lịch luôn gắn liền với khái niệm du lịch. Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005) : "Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch".
Như vậy, tài nguyên du lịch được xem như tiền đề để phát triển du lịch. Thực tế cho thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫn và hiệu quả hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu.
Tài nguyên du lịch có thể chia làm 2 nhóm:
- Tài nguyên du lịch tự nhiên: là tổng thể tự nhiên các thành phần của nó có thể góp phần khôi phục và phát triển thể lực, trí tuệ con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ và được lôi cuốn vào phục vụ cho nhu cầu cũng như sản xuất dịch vụ du lịch. Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm : địa hình, khí hậu, nguồn nước, sinh vật.
- Tài nguyên du lịch nhân văn: là các đối tượng, hiện tượng do con người tạo ra
trong suốt quá trình tồn tại và có giá trị phục vụ cho nhu cầu du lịch. Tài nguyên du lịch
nhân văn bao gồm : các di tích lịch sử văn hoá - kiến trúc, các lễ hội, các đối tượng du lịch
gắn với dân tộc học, các đối tượng văn hoá thể thao và hoạt động nhận thức khác.
1.3.2. Vai trò của việc thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch
1.3.2.1 Vai trò của việc thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch đối với sự phát triển
kinh tế
- Góp phần tăng trưởng kinh tế
Vốn đầu tư tác động đến tốc độ phát triển của nền kinh tế. Thực tiễn và kinh
nghiệm của nhiều nước cho thấy, quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở cửa, biết phát huy nội lực đồng thời tranh thủ và phát huy tác dụng của cá nhân tố bên ngoài, tận dụng lợi thế so sánh bên trong thì quốc gia đó tạo ra tốc độ tăng trưởng cao.
Vốn đầu tư vào du lịch góp phần tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc dân không chỉ trong ngành du lịch mà có thêm các ngành khác (như sản xuất đồ lưu niệm, chế biến thực phẩm, xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật...), làm tăng thêm tổng sản phẩm quốc nội.
- Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
Việc phát triển du lịch quốc tế chủ động có tác động tích cực vào việc làm tăng thu nhập quốc dân thông qua thu ngoại tệ, đóng góp vai trò to lớn trong việc cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Khách du lịch quốc tế mang theo tiền kiếm được từ quốc gia cư trú đến tiêu ở nước đến du lịch, trong chừng mực nào đó được coi là xuất khẩu của nước đến du lịch và làm cải thiện cán cân thương mại của quốc gia. Vì vậy nếu du lịch được duy trì một cách thường xuyên và phù hợp có thể coi là một tác nhân giữ ổn định nguồn thu từ xuất khẩu, góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ của một quốc gia và gia tăng nguồn tài chính cho sự phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, du lịch còn khuyến khích và thu hút đầu tư nước ngoài làm tăng dòng ngoại tệ vào, làm tăng tài khoản vốn giúp nâng cao khả năng thanh khoản của tài khoản quốc gia. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành du lịch tăng là do cơ cấu nền kinh tế thế giới nói chung và các nước nói riêng đang có xu hướng chuyển dịch ngày càng trở nên hợp lý hơn. Đó là sự tăng dần tỷ trọng ở lĩnh vực dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế. Các nhà kinh doanh đi tìm hiệu quả của đồng vốn thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh đầy hấp dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác.
- Tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Thực tế cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học nên tốc độ tăng trưởng thấp. Như vậy chính sách thu hút vốn đầu tư vào du lịch tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát ra khỏi tình trang đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh vế tài nguyên, địa thế, kinh tế của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
- Thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế
Du lịch thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Trước hết hoạt động kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ của nhiều ngành, yêu cầu về sự hỗ trợ liên ngành, là cơ sở cho các ngành khác (giao thông vận tải, tài chính, bưu điện, công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp...) phát triển. Đối với nền sản xuất xã hội, du lịch còn mở ra thị trường tiêu thụ hàng hoá. Ảnh hưởng của du lịch lên sự phát triển của các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân như thông tin, xây dựng, y tế, thương mại, văn hoá... cũng rất lớn.Việc vận dụng đưa những nơi có tài nguyên du lịch vào sử dụng, kinh doanh đòi hỏi phải xây dựng ở đó hệ thống đường sá, mạng lưới thương mại, bưu điện... Ngoài ra, du lịch phát triển còn đánh thức một số ngành sản xuất thủ công cổ truyền qua đó cũng kích thích sự phát triển tương ứng của các ngành có liên quan. Mặt khác, sự phát triển của du lịch tạo ra các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành kinh tế khác.
- Góp phần tăng cường khoa học kỹ thuật và nâng cao năng lực quản lý điều hành kinh doanh.
Thu hút vốn đầu tư sẽ làm cho trình độ khoa học kỹ thuật của các ngành kinh tế được tăng lên thông qua các dự án đầu tư được triển khai, thay thế các thiết bị, công nghệ lạc hậu. Đối với các nước đang phát triển, mặc dù tích lũy vốn và công nghệ thấp nhưng cũng có những lợi thế của người đi sau tiếp thu, thích nghi và làm chủ công nghệ có sẵn, do đó rút ngắn thời gian và giảm những rủi ro trong áp dụng công nghệ mới. Đồng thời
thu hút vốn đầu tư còn góp phần nâng cao được trình độ quản lý, năng lực điều hành của một số nhà doanh nghiệp.
- Tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
Du lịch phát triển sẽ tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương có hoạt động du lịch từ các khoản trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc quản lý trực tiếp của các địa phương và từ các khoản thuế phải nộp của các doanh nghiệp du lịch kinh doanh trên địa bàn...
1.3.2.2 Vai trò của việc thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch đối với xã hội
- Du lịch góp phần giải quyết việc làm cho người lao động : theo thống kê năm 2000 của Tổ chức du lịch thế giới, du lịch là ngành tạo việc làm quan trọng. Tổng số lao động trong các hoạt động liên quan đến du lịch chiếm 10,7% tổng số lao động toàn cầu. Cứ 2,5 giây du lịch tạo thêm được một việc làm mới, hiện nay cứ 08 lao động thì có 01 người làm trong ngành du lịch.
- Du lịch góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế vùng có hoạt động du lịch và giảm quá trình đô thị hoá. Thông thường tài nguyên du lịch tự nhiên có ở các vùng hẻo lánh, xa xôi, vùng ven biển... Việc khai thác đưa những tài nguyên này vào sử dụng đòi hỏi phải đầu tư về mọi mặt giao thông, bưu điện, kinh tế, văn hoá - xã hội... Do vậy mà việc phát triển du lịch sẽ làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội ở những vùng đó, giảm đi sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng trong cả nước, đồng thời cũng góp phần làm giảm đi sự tập trung dân cư ở những trung tâm dân cư.
- Du lịch là phương tiện tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả cho đất nước chủ nhà mà không phải mất tiền: quảng cáo cho hàng hoá nội địa ra nước ngoài, quảng cáo về các thành tựu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, giới thiệu về con người, phong tục, tập quán... thông qua du khách.
- Phát triển du lịch còn có ý nghĩa lớn đối với việc khai thác bảo tồn các di sản văn
hoá và dân tộc.
1.3.2.3 Vai trò của việc thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch đối với bảo vệ môi
trường
Tạo môi trường sống ổn định về mặt sinh thái : nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác
dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hoá môi trường thiên nhiên bao quanh, bởi vì chính môi trường này có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và hoạt động của con người.
Việc đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung khách vào những vùng nhất định đòi hỏi phải tối ưu hoá quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch. Lúc này đòi hỏi con người phải tìm kiếm các hình thức bảo vệ tự nhiên, đảm bảo điều kiện sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lý.
Giữa xã hội và môi trường trong lĩnh vực du lịch có mối quan hệ chặt chẽ. Một mặt xã hội đảm bảo sự phát triển tối ưu của du lịch, nhưng mặt khác lại phải bảo vệ môi trường tự nhiên khỏi tác động phá hoại của khách du lịch và việc xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch. Như vậy, giữa du lịch và bảo vệ môi trường có mối liên quan gần gũi với nhau.
1.4. Các nhân tố tác động đến thu hút vốn đầu tư vào du lịch
1.4.1. Sự ổn định về thể chế, luật pháp đầu tư và cải cách hành chính
Đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh trên một lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến khả năng tồn tại và phát triển của bất cứ ngành nào. Khi kinh doanh trên một đơn vị hành chính, các doanh nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể chế luật pháp tại khu vực đó.
- Thể chế nào có sự bình ổn cao trong các yếu tố xung đột chính trị, ngoại giao của thể chế luật pháp sẽ có thể tạo điều kiện tốt cho việc hoạt động kinh doanh và ngược lại các thể chế không ổn định, xảy ra xung đột sẽ tác động xấu tới hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ của nó.
- Hệ thống pháp luật đầu tư của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về vốn và cuộc sống cá nhân cho nhà đầu tư khi hoạt động đầu tư đó của họ không làm phương hại đến an ninh quốc gia, đảm bảo pháp lý đối với tài sản tư nhân và môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo việc di chuyển lợi nhuận cho các nhà đầu tư. Nội dung của hệ thống pháp luật càng đồng bộ, chặt chẽ, tiên tiến, nhưng cởi mở, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế thì khả năng hấp dẫn vốn đầu tư càng cao.
- Lực cản lớn làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư. Bộ máy hành chính hiệu quả quyết định sự thành công không chỉ thu hút vốn đầu tư mà còn của toàn bộ quá trình huy động, sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của mỗi quốc gia cũng như mỗi địa phương. Bộ máy đó phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng suốt và nhạy bén. Đối với những thủ tục hành chính, những quy định pháp luật cần phải được đơn giản, công khai và nhất quán, được
thực hiện bởi những con người có trình độ chuyên môn cao, được giáo dục tốt và có kỷ luật, tôn trọng pháp luật.
1.4.2. Sự ổn định về kinh tế vĩ mô, chính sách kinh tế và tăng trưởng kinh tế
Các doanh nghiệp chú ý đến các yếu tố kinh tế cả trong ngắn hạn, dài hạn và sự can thiệp của chính phủ tới nền kinh tế. Thông thường các doanh nghiệp sẽ dựa trên yếu tố kinh tế để quyết định đầu tư vào các ngành, các khu vực. Các yếu tố kinh tế các nhà đầu tư quan tâm là :
- Tình trạng của nền kinh tế : nền kinh tế nào cũng có chu kỳ, trong mỗi giai đoạn nhất định của chu kỳ nền kinh tế, doanh nghiệp sẽ có những quyết định phù hợp cho riêng mình.
- Các yếu tố tác động đến nền kinh tế như lãi suất, lạm phát : chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến thu hút vốn đầu tư nhất là dòng vốn FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định. Việc xem xét sự vận động của vốn nước ngoài ở các nước trên thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đầu tư, đồng thời lại tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước, trong - ngoài khu vực.
- Các chính sách kinh tế của chính phủ như các chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ, các chính sách ưu đãi cho các ngành: các mức ưu đãi tài chính - tiền tệ dành cho vốn đầu tư trước hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước để khuyến khích họ đầu tư vào những ngành, những nơi mà Chính phủ muốn khuyến khích đầu tư. Mức ưu đãi thuế cao hơn luôn được giành cho các dự án đầu tư có tỷ lệ vốn nước ngoài cao, quy mô lớn, dài hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nhiều nguyên vật liệu và lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận và có mức độ "nội địa hóa" sản phẩm và công nghệ cao hơn. Sự hỗ trợ tín dụng cùng với các dịch vụ tài chính, bảo lãnh của Chính phủ, của các cơ quan tín dụng xuất khẩu và của các tổ chức tài chính đa phương đã, đang và sẽ đóng vai trò to lớn làm tăng dòng vốn đầu tư, nhất là FDI vào các ngành và các địa phương
- Triển vọng kinh tế trong tương lai như tốc độ tăng trưởng, mức gia tăng GDP, tỉ suất GDP trên vốn đầu tư... cũng tác động mạnh đến quyết định đầu tư của các doanh nghiệp.