Tính Tất Yếu Khách Quan Của Cổ Phần Hoá Các Dnnn


Cả hai hình thức trên đều là cổ phần hoá DNNN, đều là quá trình chuyển DNNN từ một chủ sở hữu là Nhà nước sang công ty cổ phần- hình thức DN có nhiều chủ sở hữu. Đây cũng là quá trình chuyển việc quản lý DN trực tiếp là Nhà nước sang quản lý DN gián tiếp của các cổ đông thông qua hội đồng quản trị. Với cách nhìn nhận như vậy thì không thể quan niệm cổ phần hoá DNNN là tư nhân hoá.

Quá trình cổ phần hoá các DNNN, có thể mô hình hoá qua sơ đồ sau:

Công ty NN chiếm trên 50% DNNN CPH các DNNN Công ty cổ phần

Công ty NN chiếm dưới 50%


Theo sơ đồ trên, cổ phần hoá các DNNN là quá trình chuyển các DNNN thành công ty cổ phần. Tức là một quá trình, bao gồm hàng loạt các biện pháp về kinh tế và tổ chức cả ở tầm vĩ mô và vi mô nhằm chuyển đổi một doanh nghiệp từ hình thức sở hữu này sang hình thức sở hữu khác. Vì vậy, thực chất cổ phần hoá DNNN chỉ sự tác động bằng các biện pháp kinh tế, kỹ thuật tác động vào DNNN (đối tượng của cổ phần hoá), chuyển chúng thành công ty cổ phần (sản phẩm của quá trình cổ phần hoá). Để hiểu rõ thực chất của cổ phần hoá các DNNN cần đi sâu phân tích các nhân tố nằm trong sơ đồ của quá trình đó.

Nhân tố thứ nhất: DNNN với tư cách là đối tượng của cổ phần hoá:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý hoạt

động với tư cách chủ sở hữu, là pháp nhân kinh tế hoạt động theo luật pháp thực hiện các mục tiêu kinh tế xS hội do Nhà nước giao.

Những vấn đề lý luận và thực tiễn sau cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong ngành giao thông vận tải ở Việt Nam lấy ví dụ trong ngành giao thông vận tải - 3

Nhiều nghiên cứu đS kết luận về sự tồn tại khách quan và vai trò của các DNNN trong nền kinh tế đất nước, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường định hướng XS hội chủ nghĩa như nước ta. Đó là:

+ Với tư cách là doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, các DNNN thông qua các hoạt động của mình thực hiện chức năng định hướng, tạo tiềm lực


kinh tế cho nhà nước thực hiện vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Cả lôgích và lịch sử đều chứng minh về vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế trên 2 phương diện:

Một là, nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua xác lập hệ thống quản lý và chức năng hoạt động của chúng. Những văn bản có tính hành chính được thực hiện thông qua hệ thống quản lý thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế.

Hai là, nhà nước thông qua các hoạt động của hệ thống kinh tế mình sở hữu để điều tiết nền kinh tế bằng các công cụ kinh tế như thuế, lSi suất, đầu tư vốn, giá cả… Các DNNN có vai trò trực tiếp ở nhóm hoạt động thứ 2, nhưng cũng có vai trò không kém phần quan trọng ở nhóm hoạt động thứ nhất. Bởi vì, không có tiềm lực kinh tế, không sử dụng tốt các công cụ kinh tế trong quản lý, các mệnh lệnh mang tính hành chính cũng kém hiệu lực.

+ Các DNNN có vai trò to lớn trong nắm giữ các hoạt động then chốt của nền kinh tế như: điện lực, khai thác khoáng sản, dầu khí, viễn thông, vận tải và công nghiệp quốc phòng. Được tổ chức và hoạt động ở những lĩnh vực quan trọng của đời sống xS hội nhưng hiệu quả kinh tế thấp như các dịch vụ công ích, các hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp, các hoạt động bảo vệ môi trường,…Việc nắm giữ này cho phép Nhà nước một mặt đảm bảo những điều kiện phát triển, những cân đối lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân giúp cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả; mặt khác hỗ trợ kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đảm bảo những điều kiện cần thiết cho sự ổn định đời sống xS hội.

+ Các DNNN ở những vùng biên giới, những vùng có điều kiện phát triển kinh tế xS hội khó khăn, những vùng còn lạc hậu… có vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn an ninh quốc phòng, xây dựng chế độ kinh tế xS hội công bằng, dân chủ…

DNNN có vai trò như trên, tại sao lại phải tiến hành cổ phần hoá chúng? Trả lời đầy đủ câu hỏi này thuộc về tính tất yếu khách quan của cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, sẽ được trình bày ở mục(1.1.3).


Tuy nhiên, trình bày vai trò của các DNNN tác giả luận án muốn cho thấy: việc cổ phần hoá các DNNN tuy là tất yếu trong điều kiện của nhiều nước, nhưng cổ phần hoá các DNNN nào cũng cần phải có sự cân nhắc một cách thấu đáo để không làm mất đi tiềm lực kinh tế của đất nước, để nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết nền kinh tế, đồng thời để các doanh nghiệp có khả năng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Nhân tố thứ hai: công ty cổ phần với tư cách là sản phẩm của quá trình cổ phần hoá các DNNN.

Theo Luật doanh nghiệp: Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó vốn

điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Công ty có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn theo quy định của pháp luật chứng khoán; cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân với số lượng tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần (tuỳ trường hợp đặc biệt được quy định riêng). Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đS góp vào doanh nghiệp .

Như vậy, công ty cổ phần có những nội dung tổ chức và quản lý khác biệt với những loại hình doanh nghiệp khác, trước hết là các doanh nghiệp tư nhân. Công ty cổ phần đS có lịch sử phát triển hàng trăm năm, ngày nay phát triển như là hình thức tổ chức doanh nghiệp khá phổ biến vì tính ưu việt của nó không chỉ trong huy động vốn mà còn ở cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Vấn đề này sẽ được làm rõ ở mục (1.2.1) của Luận án.

Sự khác biệt của công ty cổ phần với các loại hình doanh nghiệp khác trên các phương diện, trước hết là doanh nghiệp tư nhân đS cho phép hiểu rõ thực chất của cổ phần hoá các DNNN và phân biệt cổ phần hoá các DNNN với tư nhân hoá chúng. Đứng trên phương diện này, sản phẩm của cổ phần hoá các DNNN là các công ty cổ phần, còn tư nhân hoá các DNNN là các doanh nghiệp tư nhân.


Nhân tố thứ ba: những biện pháp kinh tế, tổ chức tiến hành trong quá trình cổ phần hoá.

Chuyển từ một hình thức doanh nghiệp này sang một hình thức doanh nghiệp khác, nhất là chuyển từ một doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước sang doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước là một quá trình bao gồm rất nhiều công việc khác nhau. Đó không chỉ là chủ trương của Đảng và nhà nước mà còn là những công việc rất cụ thể nhằm chuyển biến từ hình thức sở hữu

đến các nội dung tổ chức và quản lý chúng. Cần thấy rằng, các biện pháp kinh tế, tổ chức tiến hành trong quá trình cổ phần hoá phụ thuộc vào trạng thái của các DNNN và mục tiêu của cổ phần hoá, với sự hình thành của các công ty cổ phần theo mô hình nào (nhà nước còn nắm quyền chi phối không, có cho những người ngoài doanh nghiệp mua cổ phiếu không…). Đây chính là điểm

để phân biệt sự khác nhau giữa cổ phần hoá với tư nhân hoá các DNNN. Đồng thời đây cũng là điểm để phản ánh rõ thực chất của cổ phần hoá.

Như trên đS trình bày, quá trình đổi mới các DNNN diễn ra theo nhiều xu hướng, trong đó có cổ phần hoá và tư nhân hoá. Điểm phân biệt rõ nhất giữa cổ phần hoá DNNN và tư nhân hoá DNNN là các công việc triển khai và sản phẩm của các quá trình đó. Để có các sản phẩm khác nhau, tất yếu cần phải có các biện pháp khác nhau. Nếu ở tư nhân hoá các DNNN, nhà nước không có những can thiệp, những chi phối doanh nghiệp sau khi thực hiện tư nhân hoá, thì ở cổ phần hoá các DNNN, nhà nước vẫn còn nắm phần sở hữu tài sản (tuỳ theo mức độ cần thiết mà nắm phần chi phối hay không nắm quyền chi phối).

Điều quan trọng hơn, trong xử lý các DNNN theo hình thức tư nhân hoá, các vấn đề mang tính xS hội, nhất là những vấn đề gắn với lực lượng lao động của doanh nghiệp cần được xử lý dứt điểm cho đến thời điểm hiện tại mà không chú ý đến tương lai của họ. Trong khi đó cổ phần hoá các DNNN, các vấn đề xS hội gắn với lực lượng lao động thường được xem xét cả quá khứ, hiện tại và tương lai của họ.


Với những điểm khác biệt trên, tư nhân hoá các DNNN có những nội dung thực hiện đơn giản hơn so với cổ phần hoá chúng. Các công việc như

định giá doanh nghiệp, giải quyết các chế độ liên quan đến người lao động và lựa chọn chủ thể mới của doanh nghiệp là những công việc chủ yếu của tư nhân hoá các DNNN. Các nội dung về thu hút thêm vốn, tổ chức bộ máy sau tư nhân hoá là thuộc về DNNN sau khi đS tư nhân hoá. Trong khi đó, cổ phần hoá các DNNN bao gồm các công việc như định giá doanh nghiệp; lựa chọn mức độ kiểm soát của nhà nước với doanh nghiệp, xác định mức độ ưu đSi với các loại cổ phần theo các cổ đông ưu đSi, mức độ thu hút thêm vốn, duy trì hoạt động ban đầu trước khi doanh nghiệp bầu chủ tịch Hội đồng quản trị…đều được quan tâm trong và sau cổ phần hoá.

Từ những phân tích trên cho thấy: Thực chất của cổ phần hoá DNNN là quá trình chuyển doanh nghiệp từ sở hữu một chủ sở hữu nhà nước sang doanh nghiệp đa sở hữu.

1.1.2. Tính tất yếu khách quan của cổ phần hoá các DNNN

Tư nhân hoá và cổ phần hoá các DNNN đS trở thành xu hướng có tính khách quan ở nhiều nước, nhất là ở các nước có nền kinh tế đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Điều đó bắt nguồn từ những cơ sở kinh tế xS hội chủ yếu sau:

1.1.2.1. Do yêu cầu đòi hỏi của quá trình xã hội hoá sản xuất trên thực tế

XS hội hoá nền sản xuất là xu hướng có tính quy luật của sự phát triển kinh tế xS hội. Sản xuất bao giờ cũng mang tính chất xS hội. XS hội hoá sản xuất bắt nguồn từ yêu cầu của huy động các nguồn lực xS hội, trước hết là nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế xS hội và tính xS hội của sản xuất phát triển từ thấp đến cao, gắn liền với sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất. XS hội hoá sản xuất đS mang lại những hiệu quả to lớn trong sự phát triển kinh tế xS hội.

XS hội hoá sản xuất được biểu hiện ở sự thống nhất của hai mặt đối lập


là sự phân công và hợp tác lao động. Đó chính là sự phân công, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao, làm mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các chủ thể kinh tế, giữa các ngành, các lĩnh vực, các vùng kinh tế ngày càng chặt chẽ, do đó sự phụ thuộc vào nhau ngày càng cao trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm làm ra cũng là kết quả lao động của nhiều người, thậm trí của nhiều quốc gia... tức là xS hội hoá mang tính chất quốc tế hoá.

XS hội hoá sản xuất bao gồm 3 mặt: XS hội hoá sản xuất về kinh tế - kỹ thuật, với nội dung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, gắn liền với tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xS hội hoá sản xuất về kinh tế tổ chức, mà thực chất là tổ chức lại sản xuất xS hội với mục đích làm cho hiệu suất và năng suất lao động xS hội ngày càng cao; xS hội hoá về kinh tế - xS hội mà thực chất gắn liền với việc xS hội hoá quan hệ sản xuất, trong đó quan trọng nhất là quan hệ sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu trong nền sản xuất nói chung và trong từng doanh nghiệp nói riêng.

Ba mặt trên có mối quan hệ biện chứng với nhau tạo nên tính toàn diện của xS hội hoá sản xuất. Tuy nhiên, xS hội hoá về kinh tế - kỹ thuật mang tính quyết định và xS hội hoá về kinh tế - xS hội có tính chất mở đường, tạo nên những điều kiện cho xS hội hoá về kinh tế - kỹ thuật và xS hội hoá sản xuất về kinh tế tổ chức. Chỉ khi xS hội hoá sản xuất được tiến hành đồng bộ cả ba mặt nói trên và có sự phù hợp giữa ba mặt đó mới là xS hội hoá sản xuất thực tế. Nếu chỉ dừng lại ở xS hội hoá sản xuất về tư liệu sản xuất - thiết lập quan hệ sản xuất không tiến hành đồng bộ và không có sự phù hợp giữa ba mặt nói trên thì đó mới chỉ là xS hội hoá sản xuất hình thức.

Vấn đề xS hội hoá sản xuất trên thực tế được tiến hành và biểu hiện cả trong và sau quá trình cổ phần hoá các DNNN. Tiêu chuẩn đánh giá, xem xét trình độ của xS hội hoá sản xuất đó là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức tăng năng suất lao động và hiệu quả của nền sản xuất xS hội.

Từ tính chất và yêu cầu trên của xS hội hoá sản xuất cho thấy, xS hội hoá sản


xuất là quá trình kinh tế khách quan của sự phát triển tính xS hội của sản xuất. Cổ phần hoá các DNNN nói chung và các DNNN trong ngành GTVT nói riêng là một trong các biểu hiện của xS hội hoá sản xuất trên cả ba mặt, cụ thể là:

Thứ nhất, quá trình cổ phần hoá các DNNN chính là quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý các DNNN một cách tối ưu nhất, qua đó nhằm huy động các nguồn lực trong toàn xS hội bao gồm các nguồn vốn, nguồn tài nguyên, trình độ khoa học công nghệ cũng như các nguồn lực khác của tất cả các chủ thể trong và ngoài nước tham gia vào quá trình cổ phần hoá, thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Sau cổ phần hoá các DNNN, xét về mặt đặc điểm sở hữu các nguồn lực trong các công ty cổ phần cũng như đặc điểm tổ chức quản trị doanh nghiệp ta nhận thấy nó mang tính chất xS hội cao hơn hẳn so với trước khi cổ phần hoá. Như vậy quá trình CPH DNNN, chính là quá trình xS hội hoá sản xuất về mặt kinh tế- kỹ thuật.

Thứ hai, như đS phân tích, thực chất CPH DNNN không phải là tư nhân hoá mà là quá trình tổ chức sắp xếp lại hoạt động của hệ thống các DNNN sao cho có hiệu quả nhất, tạo ra năng xuất lao động xS hội cao nhất nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Như vậy, nếu xem xét cổ phần hoá DNNN từ mục tiêu đến kết quả đạt được ta đều nhận tháy: Thực chất của cổ phần hoá DNNN chính là quá trình xS hội hoá sản xuất trên thực tế về mặt kinh tế- tổ chức.

Thứ ba, trên thực tế quá trình cổ phần hoá các DNNN ở nước ta thời gian qua là quá trình chuyển các DNNN từ hình thức một chủ sở hữu sang các doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu đó là các cổ đông. Chính quá trình chuyển đổi này đS làm cho các tư liệu sản xuất gắn với các chủ thể sở hữu của nó, vì vậy việc sử dụng các yếu tố nguồn lực của sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Mặt khác, khi DNNN chuyển

đổi thành công ty cổ phần thì hình thức tổ chức quản lý cũng như phân phối kết quả sản xuất cũng có những thay đổi cơ bản. Khi còn là DNNN thì việc tổ chức quản lý cũng như phân phối kết quả sản xuất của doanh nghiệp là do Nhà nước quyết định vì Nhà nước là chủ thể sở hữu đối với doanh nghiệp. Nhưng khi đS là công ty cổ phần thì Hội đồng quản trị lại là người đại diện hợp pháp cho quyền sở hữu của các


cổ đông đứng ra giải quyết các công việc này. Tất cả những thay đổi đó khẳng định cổ phần hoá DNNN cũng chính là quá trình xS hội hoá sản xuất trên thực tế về mặt kinh tế- xS hội.

Từ những phân tích trên một lần nữa có thể khẳng định: Cổ phần hoá DNNN là tất yếu khách quan, điều đó hoàn toàn do tính chất và yêu cầu của xS hội hoá sản xuất trên thực tế chi phối.

1.1.2.2. Do yêu cầu đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền KTTT

DNNN (kể cả các DNNN ở các nước tư bản), đặc biệt là DNNN ở các nước kế hoạch hoá tập trung là loại hình doanh nghiệp do nhà nước đầu tư vốn, quản lý theo cơ chế hành chính qua nhiều cấp trung gian. Do đó hệ thống tài chính kế hoạch tài chính cứng nhắc kém năng động; tính chủ động trong sản xuất kinh doanh bị ràng buộc bởi nhiều quy chế, quy định xuất phát từ nguồn gốc của sở hữu nhà nước của doanh nghiệp.

Tình trạng độc quyền của DNNN lại được pháp luật che chở, bảo vệ nên

đS làm mất đi động lực kinh tế trong hoạt động. Với chế độ quản lý đó lợi ích của người quản lý và người lao động không gắn với kết quả sản xuất một cách chặt chẽ nên hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao. Các DNNN thường hoạt động kém hiệu quả hơn các loại hình doanh nghiệp khác.

Như vậy, bản thân DNNN với cách thức tổ chức đS chứa đựng những yếu tố kém ưu việt hơn các loại hình doanh nghiệp khác. Trong nhiều trường hợp sự tồn tại của DNNN không tạo nên tiềm lực kinh tế cho nhà nước mà trở thành gánh nặng của ngân sách nhà nước. Đây là yếu tố mang tính tự thân của chính các DNNN dẫn đến cần phải đổi mới và hoàn thiện chúng.

Mặt khác, do nhiều lý do ở hầu hết các nước đS tổ chức quá nhiều các DNNN. Xu hướng phát triển quá nhiều DNNN đS dẫn đến quản lý kém hiệu quả, ngân sách nhà nước không thể kham nổi, dẫn đến tình trạng bỏ mặc DNNN (như tính trạng ở các nước theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trong

đó có nước ta). ë các nước đang phát triển và Đông Âu, thâm hụt của các DNNN tính trung bình khoảng 4% GDP vào những năm 70 của thế kỷ XX, ở

Xem tất cả 229 trang.

Ngày đăng: 05/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí