nghiệp sau cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu” của TS. Trần Tiến Cường; “Một số vướng mắc về tài chính đối với doanh nghiệp sau cổ phần hoá và đa dạng sở hữu" của Lê Hoàng Hải - Trưởng ban cổ phần hoá Cục tài chính doanh nghiệp... Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu đẩy đủ, toàn diện về các vấn đề sau cổ phần hoá các DNNN.
Trước những biến động của quá trình cổ phần hoá các DNNN nói chung, của ngành Giao thông vận tải nói riêng, đặc biệt là những biến động trong những năm gần đây, tác giả luận án muốn đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống cả những vấn đề diễn ra trong quá trình cổ phần hoá và nảy sinh sau cổ phần hoá DNNN, nhằm đưa ra những giải pháp xử lý đáp ứng yêu cầu bức xúc của thực tiễn. Đây cũng là công trình tiếp nối của tác giả luận án để đảm bảo tính hệ thống.
3. Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn của tiến trình cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam, chỉ ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân của những thành công và hạn chế
đó. Thông qua phân tích thực trạng tiến trình cổ phần hoá các DNNN trong ngành GTVT, luận án chỉ ra những vấn đề kinh tế- xS hội đặt ra trước, trong và sau khi cổ phần hoá, từ đó đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam. Để đạt tới mục đích trên, luận án sẽ giải quyết những nhiệm vụ khoa học sau đây:
- Hệ thống hoá và phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn về cổ phần hoá và sau cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nói chung và trong ngành giao thông vận tải nói riêng trên quan điểm kinh tế chính trị Marx - Lê Nin, làm cơ sở khoa học cho nghiên cứu về các vấn đề kinh tế xS hội trong và sau cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong ngành giao thông vận tải ở nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng quá trình cổ phần hoá các DNNN trong ngành giao thông vận tải ở nước ta và tình hình hoạt động của các công ty cổ phần
trong ngành sau khi thực hiện cổ phần hoá. Qua phân tích rút ra những kết quả đạt được, những vấn đề kinh tế xS hội đặt ra trong và sau khi thực hiện cổ phần hoá các DNNN và nguyên nhân của chúng.
Có thể bạn quan tâm!
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn sau cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong ngành giao thông vận tải ở Việt Nam lấy ví dụ trong ngành giao thông vận tải - 1
- Tính Tất Yếu Khách Quan Của Cổ Phần Hoá Các Dnnn
- Do Có Sự Thay Đổi Về Vai Trò Của Nhà Nước Trong Nền Kinh Tế Thị Trường
- Những Tác Động Đến Huy Động Và Sử Dụng Vốn Của Doanh Nghiệp Sau Cổ Phần Hoá
Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.
- Xác định các quan điểm có tính nguyên tắc. Đề xuất các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm hạn chế những vấn đề tiêu cực phát sinh trong quá trình cổ phần hoá và xử lý những nảy sinh sau khi cổ phần hoá các DNNN nói chung và trong ngành giao thông vận tải nói riêng ở nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề kinh tế, tổ chức liên quan đến cổ phần hoá và sau khi thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nói chung và trong ngành giao thông vận tải nói riêng. Những vấn đề kinh tế, tổ chức được nghiên cứu và phân tích dưới góc độ kinh tế chính trị học. Các doanh nghiệp nhà nước trong ngành giao thông vận tải bao gồm các doanh nghiệp do Bộ và các doanh nghiệp do các địa phương quản lý.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu ở các doanh nghiệp nhà nước trên phạm vi cả nước, đối với ngành giao thông vận tải đó là những doanh nghiệp đS được thực hiện cổ phần hoá. Do phạm vi nghiên cứu rộng, luận văn giới hạn nghiên cứu các doanh nghiệp nhà nước do Bộ Giao thông vận tải quản lý là chủ yếu.
- Về thời gian: Nghiên cứu quá trình cổ phần hoá từ những năm đổi mới ở nước ta, trong đó tập trung nghiên cứu những vấn đề kinh tế xS hội nảy sinh trong và sau cổ phần hoá ở các doanh nghiệp ngành giao thông vận tải đS được cổ phần hoá trước tháng 6/2004.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đó là những phương pháp đặc trưng của kinh tế chính trị như trừu tượng hoá khoa học, logích kết hợp với lịch sử, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, vì phạm vi nghiên cứu rộng, các vấn đề nghiên cứu phức tạp luận án
đS sử dụng một số phương pháp khác như: - Phương pháp điều tra xS hội học; Phương pháp phân tổ thống kê; Phương pháp chuyên khảo; Phương pháp chuyên gia; Phương pháp phân tích, so sánh; Phương pháp phân tích điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ, thách thức (SWOT).
6. Những đóng góp khoa học của luận án
- Luận án đS hệ thống hoá và phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về cổ phần hoá cũng như những vấn đề đặt ra sau cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nói chung và trong ngành giao thông vận tải ở nước ta nói riêng. Những hệ thống và phân tích đó là cơ sở khoa học cho các đánh giá thực tiễn và đề xuất các phương hướng và giải pháp giải quyết các vấn đề luận
án nghiên cứu.
- Luận án đS phân tích thực trạng quá trình cổ phần hoá và hoạt động của các công ty cổ phần trong ngành giao thông vận tải nước ta sau khi thực hiện cổ phần hoá. Trên cơ sở phân tích rút ra những kết quả đạt được,chỉ ra những mặt tồn tại, hạn chế cần giải quyết. Luận án cũng chỉ ra nguyên nhân của những thành công và hạn chế cần khắc phục.
- Luận án đS trình bày có hệ thống các quan điểm, đề xuất các phương hướng và hệ thống các giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục và hạn chế những tiêu cực phát sinh cả trong và sau khi cổ phần hoá các DNNN nói chung và trong ngành Giao thông Vận tải ở nước ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo… luận án
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về cổ phần hoá và giải quyết những vấn đề kinh tế xS hội nảy sinh sau cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
Chương 2: Thực trạng cổ phần hoá và sau cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong ngành giao thông vận tải ở Việt Nam
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm giải quyết tốt các vấn đề cổ phần hoá và sau cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn về cổ phần hoá và giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh sau cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
1.1. một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
1.1.1. Cổ phần hoá và thực chất của cổ phần hoá các DNNN
1.1.1.1. Khái niệm cổ phần hoá các DNNN
Cổ phần hoá (CPH) là một hình thức chuyển đổi doanh nghiệp từ doanh nghiệp có một hoặc số ít chủ sở hữu sang các doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu dưới hình thức các công ty cổ phần (CTCP). Thực chất của quá trình này là nhằm chuyển đổi hình thức sở hữu trong các doanh nghiệp cũ sang hình thức sở hữu hỗn hợp giữa các cổ đông là tư nhân, pháp nhân; giữa tư nhân với nhà nước; giữa tư nhân với nhau trên cơ sở chia nhỏ tài sản của công ty thành những phần bằng nhau, bán lại cho các cổ đông dưới hình thức cổ phiếu. Thông qua đó thiết lập hình thức tổ chức quản lý sản xuất theo mô hình CTCP, hoạt động với tư cách một pháp nhân độc lập. Như vậy cổ phần hoá có thể thực hiện cho bất cứ loại hình doanh nghiệp nào, kể cả doanh nghiệp tư nhân, DNNN và các loại hình doanh nghiệp khác. Mặc dù trong thực tiễn CPH diễn ra cả đối với các doanh nghiệp tư nhân song do số lượng các doanh nghiệp tư nhân CPH là không đáng kể, cho nên khi nhắc đến CPH người ta thường hiểu là CPH DNNN.
Cổ phần hoá các DNNN là thuật ngữ xuất hiện và được sử dụng ở Việt Nam gắn liền với quá trình đổi mới tổ chức và quản lý các DNNN trong những năm gần đây. Đổi mới các DNNN là xu hướng có tính phổ biến ở hầu hết các nước trong quá trình phát triển kinh tế xS hội (kể cả các nước tư bản và các nước theo mô hình của chủ nghĩa xS hội), với mục tiêu giảm thiểu ảnh hưởng khu vực kinh tế nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. Đổi mới các
DNNN có thể được diễn ra theo những mức độ khác nhau, với những nội dung thực hiện khác nhau như:
+ Đổi mới những nội dung hoạt động bên trong các DNNN theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, giảm thiểu sự bao cấp của nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Tự do hoá việc tham gia các hoạt động kinh tế cho các thành phần kinh tế khác ở những khu vực, những hoạt động vốn chỉ dành cho DNNN. Theo đó DNNN sẽ thu hẹp phạm vi hoạt động, các thành phần kinh tế khác sẽ mở rộng phạm vi. Sức cạnh tranh giữa DNNN và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác sẽ cùng tăng lên. Số lượng các DNNN sẽ giảm, gánh nặng từ ngân sách cũng giảm bớt.
+ Uỷ quyền kinh doanh hoặc cho phép các loại hình kinh doanh ngoài nhà nước ký những hợp đồng kinh tế thực hiện những dịch vụ công cộng hoặc cho khu vực ngoài nhà nước thuê những tài sản công cộng [3, tr 42].
+ Chuyển đổi một phần hoặc toàn bộ hình thức sở hữu nhà nước thành sở hữu tư nhân hoặc tập thể dưới hình thức tư nhân hoá hoặc cổ phần hoá ở các nước tư bản, các nước có nền kinh tế chuyển đổi (Nga, Đông Âu…); cổ phần hoá hoặc bán khoán, cho thuê các DNNN như ở Việt Nam.
Cổ phần hoá các DNNN là biện pháp có tính đặc thù của một số nước, trong
đó có nước ta trong việc đổi mới các DNNN những năm vừa qua. Để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi các DNNN thành các công ty cổ phần qua cổ phần hoá, cần phải có những nghiên cứu về lý thuyết và thực tiễn về cổ phần hoá các DNNN. Vì vậy, ở Việt Nam trong những năm qua cũng đS có nhiều nghiên cứu đưa ra các khái niệm khác nhau về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Theo Đỗ Bình Trọng, “cổ phần hoá chỉ việc chuyển đổi một DNNN thành một công ty cổ phần, trong đó các đơn vị kinh tế phi chính phủ được phép mua một phần hoặc toàn bộ quyền sở hữu của doanh nghiệp cổ phần hoá” [55, tr 31]. Ban đổi mới, phát triển DNNN cho rằng: “Cổ phần hoá là quá
trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần” [55, tr 32].
Có tác giả lại quan niệm: Cổ phần hoá là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu thành công ty cổ phần, tức là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu [54, 33-34].
Vì vậy, cổ phần hoá các DNNN là quá trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần, trong đó nhà nước có thể vẫn giữ tư cách là một cổ đông (một cổ đông đặc biệt). Đó là quá trình chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu của các cổ đông, đồng thời DNNN thực hiện cổ phần hoá có thể thu hút thêm vốn thông qua hình thức bán cổ phiếu.
Nhìn chung các khái niệm về cổ phần hoá đều nói trực tiếp đến cổ phần hoá các DNNN, vì vậy, đều nói tới quá trình chuyển đổi doanh nghiệp từ hình thức DNNN sang hình thức công ty cổ phần, với những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các khái niệm chưa đi sâu vào bản chất bên trong của quá trình cổ phần hoá các DNNN. Vì vậy, từ những khái niệm trên có thể khái quát và đưa ra khái niệm đầy đủ về cổ phần hoá DNNN như sau:
Cổ phần hoá các DNNN là biện pháp có tính đặc thù của quá trình đổi mới các DNNN, là quá trình chuyển các DNNN thành các công ty cổ phần.
Đó là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ một chủ sở hữu nhà nước sang sở hữu của nhiều chủ thể- đa sở hữu (hay sang sở hữu hỗn hợp), trong đó tồn tại một phần sở hữu của nhà nước; là quá trình huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất, xử lý và khắc phục những tồn tại hiện thời của DNNN; tạo những điều kiện cho người góp vốn và người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. Tất cả nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và giảm nhẹ gánh nặng của nhà nước đối với doanh nghiệp.
1.1.1.2. Thực chất cổ phần hoá các DNNN
Muốn hiểu thực chất cổ phần hoá DNNN, trước hết cần phải phân biệt hai quá trình chuyển đổi DNNN đó là cổ phần hoá và tư nhân hoá.
Trong quá trình phát triển kinh tế- xS hội ở nhiều quốc gia trên thế giới
đS diễn ra quá trình tăng cường vai trò của khu vực kinh tế tư nhân bằng cách từng bước giảm thiểu khu vực kinh tế nhà nước thông qua chương trình tư nhân hoá. Điều này đS và đang diễn ra ở nhiều nước, bao gồm cả những nước có nền kinh tế phát triển, các nước đang phát triển và cả các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Nga và các nước Đông Âu.... Nhìn chung quá trình tư nhân hoá diễn ra ở các nước này đều diễn ra theo ba mức độ:
Một là, Thay đổi một phần chế độ sở hữu của DNNN, chuyển một phần sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân.
Hai là, Tự do hoá việc tham gia những hoạt động kinh tế mà trước đây chỉ dành cho khu vực kinh tế nhà nước.
Ba là, Uỷ quyền kinh doanh hoặc cho phép tư nhân ký hợp đồng thực hiện những dịch vụ công cộng hoặc cho khu vực tư nhân thuê các tài sản công cộng [47, tr.11-13].
ë các nước này, tư nhân hoá còn được hiểu là thị trường hoá, có nghĩa là "nới lỏng hay bỏ bớt các hạn chế pháp lý dưới nhiều hình thức khác nhau đối với sự cạnh tranh chống lại các xí nghiệp công cộng"[45,4]. Quan niệm của Liên hiệp quốc về tư nhân hoá được hiểu: Tư nhân hoá là sự biến đổi tương quan giữa Nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước theo hướng ưu tiên thị trường. Thực chất, quan niệm nêu trên là mong muốn giảm bớt vai trò của Nhà nước và mở rộng khu vực tư nhân, đồng thời làm cho các DNNN phải chịu sức ép lớn hơn của thị trường. Việc giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở là nhằm giành cho thị trường vai trò điều tiết ngày càng lớn thông qua tự do hoá giả cả trên thị trường. Giảm bớt vai trò của Nhà nước còn có thể được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau, trong đó có biện pháp bán cổ phần cho công chúng hay còn gọi là cổ phần hoá DNNN.
Tuy nhiên không nên hiểu cổ phần hoá là tư nhân hoá, bởi vì giữa cổ phần hoá và tư nhân hoá là hai quá trình khác nhau cả về mục đích lẫn phương
thức tiến hành, cụ thể là: mục tiêu cổ phần hoá DNNN là góp phần nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp; huy động vốn của toàn xS hội để
đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp; đồng thời qua cổ phần hoá mà phát huy vai trò làm chủ thật sự của người lao động. Trong khi đó tư nhân hoá mục tiêu là xoá bỏ hẳn những DNNN mà Nhà nước xét thấy không cần thiết nắm giữ. Về hình thức cổ phần hoá đối với các DNNN được thực hiện tuỳ thuộc vào hình thức cụ thể mà doanh nghiệp lựa chọn trong những hình thức mà Nhà nước hướng dẫn rồi đề xuất lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt ra quyết định. Hình thức tư nhân hoá DNNN lại được thực hiện theo một hìmh thức duy nhất là bán toàn bộ tài sản thuộc sở hữu Nhà nước ở các DNNN cho các tư nhân và xoá bỏ luôn DNNN này.
Trong thực tế, quá trình chuyển hình thức doanh nghiệp có một hoặc một vài chủ sở hữu thành doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu hoặc DN từ dạng chưa phải là công ty cổ phần thành công ty cổ phần chính là quá trình cổ phần hoá. Quá trình này là một tất yếu vì thế nó diễn ra ở cả các DN tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh và cả tại các DNNN, nó chính là quá trình xS hội hoá sở hữu tại doanh nghiệp. Cổ phần hoá DNNN cũng mang những đặc trưng chung như cổ phần hoá đối với các DN hay các hình thức tổ chức kinh tế khác. Tuy nhiên để hiểu rõ hơn thực chất của cổ phần hoá DNNN cũng cần làm rõ những khác biệt về nội dung của quá trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần khác gì với quá trình tư nhân hoá nó.
ë các nước tiến hành cổ phần hoá DNNN thành công ty cổ phần có thể thông qua một trong hai hình thức sau đây:
Một là: bán toàn bộ hoặc một phần tài sản hiện có thuộc sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp cho các tổ chức kinh tế, xS hội và cá nhân bằng phương thức phát hành cổ phiếu.
Hai là: giữ nguyên toàn bộ giá trị vốn hiện có của Nhà nước tại DNNN, phát hành cổ phiếu ra công chúng để thu hút thêm vốn mở rộng DNNN.