Việt Nam hiện đại trong những ngày đầu tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng của truyền thống văn học nhà nho đầu thế kỉ XX.
c. Trong nghiên cứu văn học nói chung, nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại nói riêng, việc nhìn người phụ nữ, nhân vật phụ nữ trong văn học từ quan điểm giới không còn là một chuyện xa lạ nhưng vẫn là một hướng đi khá mới mẻ. Hướng nghiên cứu này của luận án bổ sung một góc nhìn về con người nói chung, về người phụ nữ nói riêng từ góc nhìn giới, quan tâm đến nữ tính của họ, bên cạnh những góc nhìn truyền thống đặt họ trong vai trò công dân, vai trò xã hội quen thuộc. Nghiên cứu diễn trình của kiểu nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại giúp người nghiên cứu có thêm tiêu chí đánh giá quá trình Nho giáo hóa bản thân đời sống văn học, cảm quan nhân đạo của các nhà văn, quá trình nhân đạo hóa - dân chủ hóa nền văn học Việt Nam.
2. Mục tiêu khoa học
- Mục tiêu thực tiễn: Thống kê, khảo sát trên cơ sở những tư liệu đã được công bố, dịch thuật để tìm ra những tác phẩm tiêu biểu trong văn học Việt Nam trung đại có sự xuất hiện của nhân vật liệt nữ. Trên cơ sở đó, xác định diện mạo, đặc điểm, sự vận động của loại hình nhân vật này qua các tác phẩm, các nhóm tác phẩm, các thể loại, các giai đoạn văn học.
- Mục tiêu lí luận: Từ những kết quả nghiên cứu mang tính thực tiễn, luận án muốn thông qua đó để nhìn ra những vấn đề mang tính lí luận trong sự vận động, việc phân kì của văn học Việt Nam trung đại. Cũng qua đó, luận án hướng tới việc đưa ra hoặc khẳng định thêm một số kết luận về văn học nhà nho, góp phần khẳng định tính khả thi của một hướng nghiên cứu chuyên sâu mang tính liên ngành trong nghiên cứu văn học nói chung và văn học Việt Nam trung đại nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi tư liệu
Luận án nghiên cứu nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại qua các văn bản tự sự bao gồm: truyện kí, tiểu thuyết, truyện thơ Nôm, sử truyện... Trong các văn bản tuồng, nhân vật nữ thường không được nhấn mạnh phương diện Trinh như phương diện Trung: Điêu Thuyền trong Phụng Nghi đình (không rõ thời
điểm sáng tác) chấp nhận làm vật hi sinh cho mĩ nhân kế để diệt Đổng Trác. Xuân Hương trong Ngoại tổ dâng đầu (đầu thế kỉ XX) đã nghe lời cha dùng mĩ nhân kế để giúp nghĩa quân diệt Võ Hùng Vương, tôn Bình Vương lên ngôi... Do vậy, các nhân vật nữ trong tuồng không thuộc diện khảo sát của luận án này. Những tác phẩm thơ đề vịnh nhân vật liệt nữ viết bằng chữ Hán, chữ Nôm chỉ được nhắc đến như một kênh thông tin để tham khảo chứ không phải là đối tượng khảo sát chính của Luận án. Nhân vật liệt nữ trong các ghi chép chính sử và dã sử, nếu như có liên quan và tiêu biểu, cũng sẽ được khảo sát để mở rộng phạm vi nghiên cứu và giúp cho kết luận khoa học của luận án thêm phần tin cậy.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại - 1
- Một Số Vấn Đề Về Phụ Nữ Dưới Ảnh Hưởng Của Đạo Đức Nho Giáo Trong Lịch Sử Việt Nam
- Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại - 4
- Lịch Sử Nghiên Cứu Nhân Vật Liệt Nữ Trong Văn Học Việt Nam Trung Đại
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
Chúng tôi bắt đầu với mốc thế kỉ X vì đó là thời điểm khởi đầu của văn học Việt Nam trung đại. Việc thiết kế các chương theo sự phân kì các giai đoạn văn học sử giúp người đọc dễ theo dõi tiến trình vận động của đối tượng. Việc chia các chương thành các ba chặng: Thế kỉ X - XV, Thế kỉ XVI - XVIII, Thế kỉ XIX, là nhìn theo sự vận động của bản thân đối tượng được khảo sát bên cạnh việc tham chiếu với sự vận động của lịch sử văn hóa, xã hội đương thời, sự thịnh suy đắp đổi của những triều đại lớn.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Luận án có ý nghĩa lí luận về tư duy nghệ thuật, tâm lí học sáng tạo văn học nghệ thuật, lí giải quá trình Nho giáo hoá và giải Nho giáo của văn học Việt Nam trung đại, đồng thời có giá trị thực tiễn nhất định trong việc đưa ra một bình diện tiếp cận di sản văn học trung đại Việt Nam. Nghiên cứu vấn đề này, có ý nghĩa không chỉ với lịch sử văn học nói riêng mà còn góp phần điều chỉnh một số nhận thức trong quản lí văn hóa và xã hội.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, tiếp cận liên ngành là một phương pháp có nhiều ưu điểm so với các phương pháp nghiên cứu khác. Đối với văn học Việt Nam trung đại, nghệ thuật ngôn từ nằm trong điểm giao thoa của tính nguyên hợp Văn - Sử - Triết bất phân, phương pháp tiếp cận liên ngành tỏ rõ được những ưu thế cũng như hiệu quả mà nó
mang lại. Trong luận án này, khi vận dụng phương pháp tiếp cận liên ngành, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh mối liên hệ giữa Văn và Sử, do hầu hết các nhân vật liệt nữ đều là các nhân vật lịch sử và đi từ chính sử, dã sử vào sáng tác văn chương. Qua đây, luận án khôi phục lại phần nào bối cảnh văn hóa - xã hội, các quan niệm về mặt văn hóa thời trung đại cũng như đặt tác phẩm và nhân vật trong dòng mạch của thời đại sản sinh ra nó nhằm giúp người nghiên cứu có một cái nhìn sâu sắc hơn về đối tượng của mình, tránh được phần nào sự phiến diện, chủ quan hoặc áp đặt cái nhìn của người thời hiện đại vào một sản phẩm văn hóa của thời trung đại.
- Do đối tượng nghiên cứu có những đặc thù như đã trình bày nên chúng tôi ưu tiên sử dụng phương pháp nghiên cứu trên. Ngoài ra, chúng tôi vẫn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu thường gặp như phương pháp lịch sử - xã hội, phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp loại hình học,… cùng các thao tác khoa học như giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, hệ thống hóa, mô hình hóa,… bên cạnh việc tham khảo góc nhìn của một số luận thuyết như nữ quyền luận, phân tâm học, trong đó mệnh đề nổi tiếng của Simone de Beauvoir: “Người ta không phải sinh ra là phụ nữ: Người ta trở thành phụ nữ” [11, tr.245] là một điểm tựa khá vững chắc. Do phạm vi tư liệu khá bề bộn và có những tư liệu nằm ngoài khả năng tiếp cận của chúng tôi nên Luận án chọn lối nghiên cứu trường hợp, thông qua các tác phẩm tiêu biểu đã được dịch thuật và công bố. Chúng tôi cũng ý thức rằng giữa các phương pháp và thao tác luôn có sự phát triển và kế thừa, mọi sự ứng dụng đều chỉ là tương đối và nhằm mục đích cao nhất là phục vụ việc nhận diện đối tượng trong giới hạn và điều kiện hiện có của người nghiên cứu.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án có cấu trúc gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại thế kỉ X - XV Chương 3: Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại thế kỉ XVI - XVIII Chương 4: Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại thế kỉ XIX
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Giới thuyết một số khái niệm sử dụng trong luận án
- Nhân vật: Trong nghiên cứu văn học, “nhân vật” hay còn gọi là “nhân vật văn học” được hiểu là “hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ” [8, tr.249]. Với quan niệm như vậy, nhân vật văn học thể hiện các thuộc tính người trong các thể loại thuộc loại thể tự sự và kịch, với những số phận, nhân cách riêng. Là một hình tượng nghệ thuật, nhân vật văn học được thể hiện qua các yếu tố như ngoại hình, tâm lí, hành động, các mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội và quan hệ với chính bản thân mình; giúp nhà văn thể hiện quan niệm, chính kiến, cách nhìn của mình đối với thế giới tự nhiên và xã hội.
- Liệt nữ 烈 女 : Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, “liệt 烈 ” có nghĩa là
“cứng cỏi, chính đính”, “liệt nữ” là con gái cứng cỏi chết vì tiết nghĩa không chịu nhục thân” [26, tr.332]. Trong Hán Việt từ điển, Đào Duy Anh định nghĩa “liệt nữ” là “người đàn bà kiên trinh không chịu khuất tiết” [3, tr.506]. Theo Hán ngữ đại từ điển: “Liệt nữ: Xưa chỉ người phụ nữ trọng nghĩa khinh sinh (…). Đặc chỉ người phụ nữ tuẫn tiết” [237, tr.62]. Từ hải thì định nghĩa: “Liệt nữ: Chỉ người phụ nữ
trọng nghĩa khinh sinh. (…) Xét ra, “liệt 烈” còn viết là “liệt 列” (…)” [240,
tr.1825]. Theo Từ nguyên, “Liệt nữ: Người phụ nữ cương chính, có tiết tháo. Sử kí - Thích khách truyện: Chị của Nhiếp Chính ở ấp đau buồn mà chết bên xác Chính. Người nước Tấn, Sở, Tề, Vệ nghe được đều nói: “Không chỉ một mình Nhiếp Chính có thể [được gọi là anh hùng], mà chị của Chính cũng là liệt nữ”. Xã hội phong kiến cũng gọi người phụ nữ không chịu cải giá, hoặc không chịu bị làm nhục mà tuẫn thân là liệt nữ” [238, tr.1920]. Ở Trung Quốc, không phải không có lúc người dùng bị nhầm lẫn hai chữ đồng âm này. Trong Liệt nữ truyện kim chú kim dịch, Trương
Kính viết: “Trong sách vở thường co giãn hiểu “liệt nữ 列女” thành “liệt nữ 烈女”,
cho nên trong dân gian khi răn dạy người phụ nữ không kiểm soát được hành vi của
mình thường nói: “Bất độc Liệt nữ truyện 列女傳, bất hiểu phụ đức”, tức là đã hiểu
“liệt 列” thành “liệt 烈” rồi” [243, tr.4]. Nhà văn Lỗ Tấn từng giải thích: “Căn cứ vào ý kiến của các nhà đạo đức bấy giờ thì đại khái “tiết” là chồng chết thì không được tái giá, cũng không được chằng bậy với ai, chồng chết càng sớm, nhà nghèo thì “tiết” càng cao. Nhưng “liệt” thì có hai loại: chết theo chồng hoặc chết khi có cường hào đến hiếp, chết càng thảm, càng đau khổ thì “liệt” càng cao” [169, tr.35].
Sang đến Việt Nam, hệ thống nhân vật văn hóa - văn học này cũng gần như chưa bao giờ được định nghĩa một cách hoàn chỉnh trong các văn bản hành chính chính thống thời trung đại. Các nhân vật đó, đến thời Nguyễn thường được gọi chung là “tiết phụ” và dường như chỉ có danh hiệu “tiết phụ quyên sinh” và “trinh nữ” là được quy định cụ thể trong Lệ nêu thưởng thọ dân, thọ quan, nghĩa phu, tiết phụ, trinh nữ, hiếu tử, thuận tôn... sửa đổi năm 1866: “Tiết phụ quyên sinh, từ sau có người nào sau khi chồng chết, (không kể có con hay không) mà quyên sinh (như thắt cổ, tự vẫn, nhảy xuống sông, xuống giếng), cho vẹn tiết, có đủ người nhà chồng và hương lí bảo chứng khai rõ, do quan địa phương xét hỏi kĩ càng sự trạng đích xác, để tâu rõ, thưởng cấp cho một tấm biển, Nhà nước làm nhà riêng cho. Trinh nữ, từ sau phàm con gái vẫn chưa đi lấy chồng, mà biết kiên trinh giữ tiết, không chịu để cho kẻ cường bạo làm nhơ nhuốc được, sự trạng đích xác, có thương tích làm bằng chứng, không kể có chết hay không, thưởng cấp cho một tấm biển như lệ tiết phụ, nhà nước làm nhà riêng cho, (2 khoản ấy trước đều đặc cách ban ơn, chưa có định lệ, đến nay mới vâng lệnh chước nghị)” [152, tr.1019]. Tuy nhiên, một phần vì sự lẫn lộn của hai chữ đồng âm, khái niệm “liệt nữ” được sử dụng không hẳn nhất
quán tại Việt Nam. Trong luận án này, chúng tôi quan niệm: “Liệt nữ 烈 女 là người
phụ nữ hi sinh tính mạng của mình để bảo toàn trinh tiết, chứng minh sự trinh tiết, hoặc để thể hiện lòng chung thủy đối với chồng” dù cho người đó có được triều đình phong kiến nêu khen hay không. Những trường hợp được gọi là “trinh nữ”,
“tiết phụ”… cũng được luận án xem xét để hiểu rõ hơn tính hệ thống của kiểu nhân vật này trong văn học Việt Nam trung đại.2
- Văn học Việt Nam trung đại: “Văn học Việt Nam trung đại”, hay còn gọi là “văn học cổ Việt Nam”, “văn học Việt Nam thời kì sử dụng chữ Hán và chữ Nôm”, “văn học viết Việt Nam thế kỉ X - XIX”,… có một số đặc trưng cơ bản như: Là sản phẩm của thời kì nguyên hợp Văn - Sử - Triết bất phân thể hiện ở việc khái niệm “văn” được hiểu một cách khá rộng rãi, “Tư tưởng kinh điển và tôn giáo đã cung cấp cảm hứng, đề tài, chủ đề và gợi ý các thể loại cho văn học trung đại” [168, tr.66], tính chất ước lệ gắn với việc sùng cổ, sử dụng điển tích điển cố, đội ngũ sáng tác chủ yếu là tăng lữ, quý tộc và nhà nho, sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm, kéo dài từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn học cổ Trung Quốc và có mối quan hệ qua lại với văn học dân gian Việt Nam.
1.2. Một số vấn đề về phụ nữ dưới ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam
1.2.1. Một số vấn đề về phụ nữ dưới ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo trong lịch sử Trung Quốc
Trong lịch sử Trung Quốc, vấn đề khắc phục bản năng tình dục, khẳng định sự vượt trội và thống trị của nam giới với nữ giới, ý nghĩa của mối quan hệ giữa Trung, Hiếu, Trinh là một mối quan tâm kéo dài qua nhiều thời đại. Hàn Phi Tử (281 TCN - 233 TCN), đại diện tiêu biểu của Pháp gia từng viết trong Thiên Trung hiếu: “Thần nghe nói: “Tôi thờ vua, con thờ cha, vợ thờ chồng, ba việc đó thuận thì thiên hạ trị yên. Đó là cái đạo bất biến của thiên hạ. Vị vua sáng, bầy tôi hiền không thể thay đổi được nó” [133, tr.574]. Trong thời Chiến quốc, Khổng Tử (551 TCN - 479 TCN) tuy chưa nói nhiều đến việc ngăn ngừa người phụ nữ tái giá hay cổ vũ họ tự tận theo chồng nhưng ông có khá nhiều lần phát ngôn xem thường phụ nữ như: “Duy nữ tử dữ tiểu nhân nan vi dưỡng dã, cận chi tắc bất tốn, viễn chi tắc oán (Chỉ
2 Trong Luận án của chúng tôi, “liệt nữ 烈 女 ” không phải có chú chữ Hán đi kèm như “liệt nữ 列 女 ”.
có đàn bà và tiểu nhân là khó nuôi thôi. Gần thì chúng nhờn, xa thì chúng oán )”3. Kinh Lễ có ghi lại chuyện Tử Tư khóc vì không được tổ chức lễ tang cho người mẹ của mình do bà đã tái giá. Cũng trong Kinh Lễ, những ngăn ngừa, giới hạn trong ứng xử, giao tiếp, quan hệ nam nữ đã được ghi lại, trở thành khuôn mẫu cho mấy nghìn năm sau: “Người nam và người nữ, không được phép ngồi chung hỗn độn, quần áo không được treo chung trên cùng một giá treo áo; từng mỗi người tự có khăn lược của riêng mình, không được phép dùng lẫn lộn; đưa đồ vật cũng không được phép chính tay chuyền cho. (…) Giữa người con trai và con gái, nếu như chưa có thông qua mai mối của người trung gian, không được phép tự ý riêng tư trao đổi tên tuổi cho nhau” [127, tr.337 - 338]. “Lễ kí - Giao đặc sinh nói: “Tín là đức hạnh của phụ nữ. Một khi đã sánh đôi với người thì trọn đời không thay đổi, nên chồng chết thì không lấy chồng khác” [138, tr.184 - 185]. Thực ra, những quan niệm này có nguồn gốc sâu xa từ tác phẩm triết học lâu đời bậc nhất của Trung Quốc - Kinh Dịch. Kinh Dịch quan niệm “Nhất âm nhất dương chi vị đạo (Một âm một dương gọi là đạo)” [98, tr.451] và cũng trong Kinh Dịch, quan niệm “Phụ nhân trinh cát, tùng nhất nhi chung dã” (Người đàn bà mà chính chuyên, ấy tốt: Theo một chồng cho trọn đời)” [Dẫn theo: 229, tr.156 - 157] đã được nhấn mạnh. Theo kinh điển Nho gia, “Quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu phụ; cập kì chí dã, sát hồ thiên địa (…) Đạo người quân tử khởi đầu mối từ vợ chồng; đến chỗ cùng cực của đạo ấy thì thấu triệt trời đất” (Tử Tư) [215, tr.1254 - 1255]. Sự “tu thân” mà Nho giáo quy định “từ thiên tử cho tới thứ dân” là nhằm phục vụ cho mục đích chính trị (Đức trị - Nhân trị) và nhuốm màu sắc tôn giáo (Thiên nhân cảm ứng). Việc tu thân được nhà nho đề cao bởi nó có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị. Trong Luận ngữ, Hữu tử nói: “Kì vi nhân dã hiếu đễ nhi hiếu phạm thượng giả tiển hĩ. Bất hiếu phạm thượng nhi hiếu tác loạn giả vị chi hữu dã (…)” (Là người hiếu đễ mà thích phạm thượng thì thật ít
thấy. Đã là người không thích phạm thượng mà thích làm loạn thực chưa từng có (…)”4. Nhân vật liệt nữ ra đời trong bối cảnh văn hóa Nho giáo đó và có một ý
3 Phạm Văn Khoái (2004), Khổng phu tử và "Luận ngữ", NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.370.
4 Phạm Văn Khoái (2004), Khổng phu tử và "Luận ngữ", TLĐD, tr.184.
nghĩa nhất định trong việc khẳng định sự tồn tại của Hoàng quyền, Phụ quyền và Nam quyền. Người phụ nữ giữ trinh tiết, thủy chung như nhất với chồng là nền tảng cơ bản cho sự hiếu đễ của người con đối với cha và trên nữa là lòng trung thành của bề tôi đối với vua trong mối quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng theo đạo Tam cương. Nhà nho đề cao người liệt nữ là vì mục đích chính trị, đạo đức và tôn giáo đó. Theo Vi Chính Thông, việc coi con hiếu sẽ là tôi trung là biểu hiện của “phiếm hiếu chủ nghĩa”, coi hiếu và trung là một và bề tôi đối với vua cũng như con đối với cha, là sự phóng đại mô hình gia đình thành mô hình xã hội [Xem thêm: 191, tr. 101
- 106].
Đến Mạnh Tử (372 TCN - 289 TCN), học trò của Tử Tư (Khổng Cấp), vấn đề hôn nhân nam nữ trở thành câu chuyện thừa tự, nối tông, coi chuyện không có con trai nối dõi là tội lớn nhất trong ba tội bất hiếu. Do đó, Phùng Hữu Lan cho rằng “[Theo nhà nho] mục đích chân chính của việc nam nữ giao hợp tức là sinh con (…), ái tình và khoái cảm không phải là hệ quả quan trọng, cho nên Nho gia cũng không xem trọng” [90, tr.488]. Đến Đổng Trọng Thư (179 TCN - 104 TCN), kiến nghị “bãi truất bách gia, độc tôn Nho học” cùng với sự phổ biến quan niệm “thiên nhân tương ứng”, “âm ti dương tôn”, thuyết tam cương ngũ kỉ, thuyết tam tòng… do ông đề xướng đã một lần nữa hạ thấp vai trò của người phụ nữ. Theo Phùng Hữu Lan, “Trong luân lí xã hội Trung Quốc, tam cương có ảnh hưởng rất mạnh. Theo kiến giải truyền thống, khi đánh giá một kẻ nào, người ta chú trọng ba mặt trung - hiếu - đại tiết của người đó (…). Một khi người đàn bà đã thất tiết (không trung thành với chồng), thế là xong, không còn gì để bàn luận nữa” [91, tr.41 - 43]. Lưu Hướng (77
TCN - 6 TCN) đời Hán viết Liệt nữ truyện 列 女 傳 để làm khuôn thước cho phụ nữ
theo chuẩn mực của đạo đức Nho giáo gồm 7 mục (“Mẫu nghi”, “Hiền minh”, “Nhân trí”, “Trinh thuận”, “Tiết nghĩa”, “Biện thông”, “Nghiệt bế”) với mục đích ban đầu là “để răn thiên tử” [233, tr.36]. Thạch Phương cho rằng chính Liệt nữ truyện của Lưu Hướng và Nữ giới của Ban Chiêu đã hình thành một thứ cương thường luân lí trói buộc phụ nữ. Dù sao, theo Hoàng Anh, vấn đề “nam nữ có phân biệt” ở đời Hán mới là một tín điều, tục lệ nhiều nơi vẫn còn tương phản với tín