Hoạt Động Bốc Xếp, Lưu Giữ Hàng Hóa Chất Độc Hại Tại Cảng Biển


Hình 1 5 Tàu chở khí hóa lỏng Hình 1 6 Tàu chở container 1 3 2 4 Hoạt động 1Hình 1 5 Tàu chở khí hóa lỏng Hình 1 6 Tàu chở container 1 3 2 4 Hoạt động 2


Hình 1. 5. Tàu chở khí hóa lỏng

Hình 1. 6. Tàu chở container

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.


1.3.2.4. Hoạt động bốc xếp, lưu giữ hàng hóa chất độc hại tại cảng biển

Cảng biển là khu vực bao gồm vùng đất cảng và vùng nước cảng, được xây dựng kết cấu hạ tầng và lắp đặt trang thiết bị cho tàu biển ra, vào hoạt động bốc xếp hàng hoá, đón trả khách hàng và thực hiện dịch vụ khác. (Bộ luật Hàng hải Việt Nam, 2015).

Cảng biển có thể được chia thành nhiều bến khác nhau, mỗi bến dành riêng cho việc xử lý và lưu trữ một loại hàng hóa cụ thể. Quy mô và chuyên môn hóa của cảng sẽ xác định các thiết bị và phương tiện xếp dỡ khác nhau.

Bốc xếp hàng hóa tại cảng là quá trình đưa hàng từ cảng hay từ phương tiện vận chuyển hàng đến cảng để xếp hàng đó lên tàu và ngược lại. Như vậy, bốc xếp hàng hóa tại cảng bao gồm cả quá trình vận chuyển hàng trong nội bộ của cảng.

a) Bốc xếp HNS tại cảng biển

Các loại bến bốc xếp HNS được chia thành 4 dạng[69]:

- Cảng khí hóa lỏng: Vận chuyển một hóa chất ở dạng khí không phải là không khả thi nhưng vì thể tích của nó là quá lớn. Để giải quyết vấn đề này, khí được hóa lỏng bằng cách duy trì chúng ở nhiệt độ rất thấp hoặc dưới áp suất, theo nhiệt độ tới hạn của chúng.

Khí lạnh chủ yếu bao gồm: khí hóa lỏng hoặc LPG (ở nhiệt độ - 45° C), etylen (ở nhiệt độ - 104° C) và khí tự nhiên hóa lỏng hoặc LNG (tại -162° C). Khí điều áp chủ yếu bao gồm: butan (ở 5 bars), amoniac (ở 16 bars) và propan (ở 18 bars).

Một số cảng được trang bị các nhà máy hóa lỏng, nơi khí có thể được chuyển thành chất lỏng sau đó được vận chuyển bằng ống cách nhiệt đến bể chứa. Khí hóa lỏng được vận chuyển đến bến thông qua các đường ống trên bờ. Những đường ống này được kết nối với ống nạp / dỡ hàng của tàu bằng các cần cẩu linh hoạt hoặc khớp nối.

- Cảng hàng lỏng chở xô: Hầu hết hàng hóa thuộc loại này là chất lỏng ở nhiệt độ môi trường (dầu mỏ, axit, rượu..). Chúng được lưu trữ và được nạp chính xác theo cách


tương tự như khí hóa lỏng. Tuy nhiên, một số chất, như dầu cọ hoặc dầu nhiên liệu nặng và phải được hâm nóng trước khi chuyển tải (bơm, rót).

Phần lớn các hàng hóa chất độc hại vận chuyển với khối lượng lớn đều bốc xếp theo hình thức này. Quá trình bốc xếp hàng dạng này thường chỉ tiến hành tại các cảng chuyên dụng bốc xếp hàng lỏng và khối lượng hàng bốc xếp thường lớn do vậy nguy cơ mất an toàn cũng cao.

- Cảng hàng rời (hàng khô): Chất rắn số lượng lớn được lưu trữ ngoài trời (than, quặng sắt), hoặc trong kho hoặc silo trong trường hợp vật chất có thể phân hủy (ví dụ: hạt phân đạm, clinke,…). Hàng hóa được vận chuyển từ bến bốc hàng đến khoang của tàu bằng băng tải và ngược lại.

Chúng được dỡ xuống bằng cách sử dụng gầu ngoạm lớn, thang máy thẳng đứng hoặc hệ thống hút cố định.

Các hàng HNS có tính độc cao ít khi được bốc xếp theo hình thức này, một số hàng hóa chất được vận chuyển bốc xếp theo hình thức này bao gồm: lưu huỳnh dạng rời, phân bón và hóa chất bảo vệ thực vật đóng trong bao gói cỡ nhỏ.

- Cảng container: Các container được tải lên và bốc dỡ khỏi tàu bằng các cần cẩu chuyên dụng được thiết kế để di chuyển hàng hóa nhanh chóng và chính xác.

Hàng hóa chất độc hại khối lượng nhỏ thường được vận chuyển theo hình thức này, bao gồm tất cả các dạng rắn, lỏng hay khí.


Hình 1 7 Các loại hình bến cảng bốc xếp HNS b Lưu giữ hàng HNS tại cảng 3


Hình 1. 7. Các loại hình bến cảng bốc xếp HNS


b) Lưu giữ hàng HNS tại cảng biển

Lưu giữ hàng hóa tại cảng là quá trình bảo quản hàng hóa, đóng/dỡ hàng hóa trong bao/kiện/container trong phạm vi của cảng.

Các hình thức lưu giữ hàng nguy hiểm là chất độc hại tại cảng biển[69]:

- Lưu giữ trực tiếp ngoài trời: hàng hóa được lưu giữ tại các bãi hàng của cảng tiếp xúc trực tiếp với môi trường xung quanh. Đây là hình thức ít được sử dụng trong lưu giữ hàng nguy hiểm, chỉ có những hóa chất có độc tính thấp, bền trong môi trường và thời gian lưu giữ ngắn mới sử dụng hình thức này. Phương thức này không được khuyến khích trong lưu giữ hàng nguy hiểm là hóa chất độc hại.


Hình 1 8 Lưu giữ hàng hóa chất ngoài trời lưu huỳnh rời Hình 1 9 Lưu giữ 4Hình 1 8 Lưu giữ hàng hóa chất ngoài trời lưu huỳnh rời Hình 1 9 Lưu giữ 5


Hình 1. 8. Lưu giữ hàng hóa chất

ngoài trời (lưu huỳnh rời)

Hình 1. 9. Lưu giữ hàng hóa chất

trong containe

- Lưu giữ trong các container để ngoài trời: Các hàng hóa được đóng trong các container nguyên niêm phong và xếp trực tiếp tại bãi container ngoài trời.

- Lưu giữ trong kho: Hàng hóa để rời hoặc đóng trong bao/kiện/container được bảo quản trong kho có mái che, có tường bao hoặc không có tường bao.


Hình 1 10 Lưu giữ hàng hóa chất trong kho Hình 1 11 Lưu giữ hàng hóa chất trong 6Hình 1 10 Lưu giữ hàng hóa chất trong kho Hình 1 11 Lưu giữ hàng hóa chất trong 7


Hình 1. 10. Lưu giữ hàng hóa chất trong kho

Hình 1. 11. Lưu giữ hàng hóa chất trong téc ngoài trời


- Lưu giữ trong các tec/thùng ngoài trời: Hàng hóa dạng lỏng/bùn được chứa trong các téc hay thùng chứa chuyên dụng và lưu giữ ngoài trời.

1.3.3. Các đặc tính nguy hại của hàng hóa chất độc hại (HNS) trong quá trình vận chuyển bằng đường biển

Một sự cố liên quan đến một con tàu chở nhiều hơn một hàng hóa là chất độc hại, ví dụ, tàu container, tàu chở hàng bưu kiện hoặc tàu Ro-Ro, có thể gây ra các sự cố cộng hưởng do khả năng các hàng hóa khác nhau trộn lẫn với nhau, tương tự như với các chất lỏng chứa trong các container, téc hoặc rơ moóc riêng biệt khi bị hư hỏng. Đặc biệt, việc xác định các nguy cơ cụ thể của container hoặc téc và đánh giá các mối nguy hiểm có thể khó thực hiện và trong một số trường hợp do bản kê khai hàng nguy hiểm và kế hoạch xếp hàng có thể không cung cấp đủ chi tiết để đánh giá đầy đủ mức độ nghiêm trọng của một sự cố tiềm năng.

Ngay cả số lượng tương đối nhỏ của hàng nguy hiểm là hóa chất độc hại cũng có thể gây ra rủi ro đáng kể. Ví dụ, nhôm photphua (AlP), một chất khử trùng được vận chuyển rộng rãi, phản ứng với nước để tạo ra khí độc là phốt phin (PH3). Một sự cố cũng có thể liên quan đến tràn dầu nhiên liệu hoặc một loại dầu nào khác, nếu HNS phản ứng với dầu tràn có thể tăng mức độ nguy hiểm cho sức khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường ở mức độ cao hơn.

1.3.3.1. Các dạng tồn tại của HNS ngoài môi trường

Phân loại các chất, cho dù là chất khí, chất lỏng hay chất rắn, theo tính chất vật lý khi thải ra môi trường biển, là một biện pháp hữu ích để đánh giá mức độ ảnh hưởng tới môi trường và xây dựng kế hoạch ứng phó. Đánh giá ảnh hưởng của một chất được xác định bởi các tính chất độ bay hơi, độ hòa tan và mật độ và chúng lần lượt xác định các mối nguy hiểm được thể hiện bởi chất đó (độc tính, dễ cháy, phản ứng, nổ, ăn mòn, v.v.).

Hệ thống phân loại tính chất tiêu chuẩn châu Âu (SEBC) phân loại HNS thành 12 nhóm trên cơ sở phản ứng đặc trưng của chúng trong nước Hình 1. 12. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là hệ thống này chỉ phân loại hóa chất theo phản ứng đặc trưng của chúng liên quan đến quá trình đổ tràn và một hóa chất cũng có thể biểu hiện phản ứng khác đặc trưng. Ví dụ, benzen được phân loại theo đặc tính nổi trội của nó (chất bay hơi) nhưng nó cũng hòa tan ở một mức độ nhất định. Tất cả các khía cạnh của một tính chất nên được xem xét khi đánh giá rủi ro và lập kế hoạch ứng phó.



Ký hiệu

Nhóm đặc tính

Tính chất

G

khí

Bay hơi ngay lập tức

GD

Khí/hòa tan

Bay hơi ngay lập tức, tan

E

Bay hơi

Bay hơi nhanh

ED

Bay hơi/hòa tan

Bay hơi nhanh, tan

FE

Nổi/bay hơi

Nổi, bay hơi

FED

Nổi/bay hơi/hòa tan

Nổi, bay hơi, hòa tan

F

Nổi

Nổi

FD

Nổi/hòa tan

Nổi, hòa tan

DE

Hòa tan/bay hơi

Hòa tan, bay hơi nhanh

D

Hòa tan

Hòa tan nhanh

SD

Chìm/hòa tan

Chìm, hòa tan

S

Chìm

Chìm

Hình 1. 12. Biểu diễn sơ đồ của phân loại tính chất tiêu chuẩn châu Âu[22].


1.3.3.2. Các mối nguy hại chính của HNS vận chuyển bằng đường biển

* Tính dễ cháy

Tính dễ cháy là sự dễ dàng bắt lửa tự nhiên hoặc thông qua sự hiện diện của nguồn đánh lửa. Tính dễ cháy của chất lỏng bị chi phối bởi áp suất hơi hoặc điểm chớp cháy của nó. Chất lỏng dễ cháy được đặc trưng bởi điểm sôi thấp và điểm chớp cháy. Các vật liệu dễ cháy khác có thể tự bốc cháy khi tiếp xúc với không khí. Một đám cháy HNS có thể dẫn đến sự giải phóng nhiệt, bụi và khí độc.

* Tính dễ nổ

Chất nổ là một hóa chất hoặc hỗn hợp các hóa chất trở nên không ổn định trong các điều kiện môi trường nhất định, ví dụ, do nhiệt, ma sát, va đập hoặc tĩnh điện, và giải phóng năng lượng dự trữ của nó. Các chất được phân loại theo độ nhạy cảm của chúng với các điều kiện môi trường, vận tốc của chúng khi phát nổ và theo thành phần hóa học của chúng. Việc phân loại cũng bao gồm các vật liệu như thiết bị pháo hoa và đạn dược.

Vụ nổ có thể đi kèm với sóng xung kích, lửa và nhiệt. Cụ thể, thiệt hại xảy ra khi năng lượng được giải phóng không thể tiêu tan nhanh chóng. Một ví dụ quan trọng về sự kết hợp bùng nổ của vật liệu dễ bay hơi và điều kiện môi trường là sự nổ hơi chất lỏng khi được đun sôi; ví dụ: sự nóng lên của một loại khí hóa lỏng được nén, ép, có thể dẫn đến vỡ bình chứa do quá áp sau khi sôi chất lỏng bên trong. Kết quả là một vụ nổ tức thời, có thể phát triển thành một đám mây dễ cháy đủ lớn để tạo ra một đám cháy, quả cầu lửa hoặc vụ nổ đám mây hơi.


Giới hạn nổ dưới và trên (LEL và UEL) xác định phạm vi mà khí hoặc hơi trong không khí có khả năng bốc cháy khi có nguồn đánh lửa.

* Tính oxy hóa

Một chất có nguy cơ oxy hóa có thể được hiểu là các chất trong bản thân chúng không nhất thiết là dễ cháy, nhưng thành phần của chúng chứa ô xy dễ phân hủy bằng cách đó chúng cung cấp oxy để đốt cháy vật liệu khác. Các tác nhân oxy hóa mạnh, ví dụ axit nitric (HNO3), có thể phản ứng đặc biệt dữ dội với vật liệu hữu cơ.

* Độc tính

Hóa chất độc hại bao gồm những chất gây tử vong hoặc thương tích cho các sinh vật sống nếu hít phải, ăn hoặc hấp thụ qua da ở mức độ thấp. Độc tính thường được đo lường và phân loại theo mức độ rủi ro bằng nồng độ cụ thể đại diện cho sức khỏe con người hoặc môi trường. Giới hạn nồng độ phơi nhiễm cấp tính và mãn tính thường được trích dẫn. Phơi nhiễm cấp tính được định nghĩa là một lần tiếp xúc với một chất độc hại có thể gây tổn hại sinh học nghiêm trọng hoặc tử vong và thường được đặc trưng là phơi nhiễm kéo dài không quá một ngày. Phơi nhiễm mãn tính được định nghĩa là tiếp xúc liên tục với chất độc trong một thời gian dài, thường được đo bằng tháng hoặc năm, có thể gây ra tác dụng phụ không thể đảo ngược. Clo là một ví dụ về một loại khí độc hại cao.

* Nguy cơ ăn mòn

Hóa chất ăn mòn có thể phá hủy hoặc làm hỏng không thể phục hồi bề mặt hoặc chất khác mà chúng tiếp xúc, bao gồm cả mô sống (da, mắt, phổi) và các vật liệu như thiết bị phản ứng, hàng hóa hoặc bao bì khác. Ví dụ axit sulfuric (H2SO4), natri hydroxit (NaOH).

* Gây kích ứng / có hại

Một hóa chất trong danh mục này có thể gây hại cho sức khỏe trong khi những chất có đặc tính gây kích ứng có thể gây phản ứng với da (viêm da) và màng nhầy trong cơ thể sống (ví dụ: mắt, cổ họng và / hoặc phổi).

* Khả năng phản ứng

Hóa chất có thể phản ứng với các vật liệu lân cận, dầu nhiên liệu, nước hoặc không khí theo nhiều cách khác nhau, bao gồm ăn mòn, phân hủy, oxy hóa/khử hoặc phản ứng trùng hợp. Điều quan trọng là phải biết khả năng phản ứng của chất để tạo ra một phản ứng thích hợp vì những phản ứng này có thể tạo ra nhiệt và khí dễ cháy hoặc độc hại. Ví dụ, sắt có thể phản ứng với một số axit hoặc kiềm mạnh để giải phóng hydro mà trong

44


không khí tạo ra hỗn hợp nổ hydro-không khí. Một số hóa chất có thể trùng hợp với việc bổ sung nhiệt hoặc nước. Polyme hóa thường đi kèm với sự giãn nở thể tích và giải phóng nhiệt (tỏa nhiệt), có khả năng gây ra hỏng hàng hóa, bao bì/bình chứa chúng. Sản phẩm cũng có thể bị phân hủy thành các sản phẩm thứ cấp do tương tác với môi trường xung quanh. Các mối nguy hiểm đặc biệt của sự phân hủy là sự hình thành các khí, chẳng hạn như carbon dioxide (CO2) và hydro sunfua (H2S), chúng là các chất độc hại, mức oxy thấp có thể gây nguy hiển đến tính mạng con người trong quá trình vận chuyển và lưu giữ trong kho kín.

* Ảnh hưởng đến tài nguyên biển

Tác động của một hoặc nhiều hóa chất đối với môi trường biển phụ thuộc vào một số yếu tố. Đáng kể nhất là độc tính của các hóa chất hoặc hỗn hợp các chất hoặc các sản phẩm phản ứng của chúng trong môi trường. Mức độ ảnh hưởng cũng sẽ phụ thuộc vào số lượng hóa chất liên quan và nồng độ trong nước, cũng như thời gian tiếp xúc với hóa chất đó và độ nhạy cảm của sinh vật với hóa chất đó trong môi trường. Không chỉ các loài thủy sinh khác nhau thể hiện khả năng chịu đựng khác nhau đối với các chất, mà khả năng chịu đựng của một loài nhất định có thể thay đổi theo các giai đoạn khác nhau trong vòng đời và mùa của nó. Các điều kiện khí tượng phổ biến và địa hình địa phương cũng có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến tác động của sự cố tràn đổ. Trong điều kiện tĩnh, khu vực tiếp xúc với các tác động bất lợi có thể tương đối nhỏ và chỉ mở rộng chậm, với cường độ tác động giảm dần theo khoảng cách từ nguồn tràn. Mặt khác, trong một dòng sông hoặc đường thủy bị giới hạn, một luồng nước di chuyển có thể di chuyển xuôi dòng một cách nhanh chóng, tạo ra một khu vực mới nhanh đạt đến nồng độ cao hoặc giới hạn gây hại.

Ở vùng biển mở, dòng triều, dòng hải lưu và sự khuếch tán hỗn loạn thường dẫn đến sự pha loãng nhanh chóng các chất ô nhiễm. Tuy nhiên, ngay cả khi nồng độ dưới mức có thể dẫn đến tử vong cũng có thể dẫn đến các tác động khác. Các ảnh hưởng do hóa chất có thể làm giảm khả năng tổng thể của sinh vật để sinh sản, phát triển, nuôi con hoặc hoạt động bình thường. Ngoài ra, còn phải tính đến khả năng gây độc của hóa chất, ngay cả ở mức độ dưới mức tử vong cho sinh vật này nhưng vẫn có thể gây tổn hại cho các nhu cầu sử dụng khác về tài nguyên biển, ví dụ, thông qua việc làm bẩn cá hoặc phải đóng cửa các bãi biển.

Một số chất có thể tồn tại trong thời gian dài trong môi trường biển một khi bị thoát xuống biển, bao gồm các nguyên tố như thủy ngân hay các kim loại nặng khác và một số hợp chất hữu cơ, như thuốc trừ sâu, không dễ bị phân hủy. Sự hấp thu các chất

45


này của các sinh vật sống có thể dẫn đến tích lũy sinh học. Tích lũy sinh học đề cập đến sự tích tụ hóa chất độc dai dẳng trong một sinh vật, và đặc biệt trong các mô nhất định, với tốc độ vượt quá tốc độ đào thải do phân hủy hoặc bài tiết trao đổi chất. Các sinh vật biển lọc nước biển để làm thức ăn, chẳng hạn như nhuyễn thể hai mảnh vỏ (hàu và trai), đặc biệt dễ bị tổn thương khi tiếp xúc với hóa chất này. Phóng đại sinh học, sự gia tăng tuần tự nồng độ của một chất tích lũy sinh học từ con mồi đến động vật ăn thịt, cũng có thể xảy ra trong chuỗi thức ăn. Do đó, nồng độ cao nhất của chất thường được tìm thấy trong các mô của động vật ăn thịt trên cùng, ví dụ, tăng từ số lượng nhỏ trong sinh vật phù du đến nồng độ cao hơn ở cá và cuối cùng dẫn đến mức độ đáng kể ở người.

1.3.4. Các quy định về bảo vệ môi trường trong bốc xếp và lưu kho hàng HNS tại cảng biển

1.3.4.1. Quy định về bảo vệ môi trường tại cảng biển trong Công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia

Vấn đề phòng ngừa tai nạn và ô nhiễm môi trường, đặc biệt là môi trường biển, là một trong những công tác trọng tâm hàng đầu của IMO. Từ khi ra đời (năm 1958) đến nay, IMO đã thông qua một số lượng đáng kể các văn bản luật điều chỉnh vấn đề nói trên như công ước Quốc tế về phòng ngừa va chạm trên biển (1972), Công ước Quốc tế về an toàn sinh mạng người trên biển (1974), Công ước quốc tế về tìm kiếm và cứu nạn hàng hải (1979) Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với tổn thất ô nhiễm dầu (1992) , Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu nhiên liệu (2001), Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra 1973, được sửa đổi bởi Nghị định thư 1978 (MARPOL 73/78), Công ước quốc tế về kiểm soát các hệ thống chống hà độc hại của tàu, 2001 (Công ước AFS 2001), Công ước quốc tế về quản lý nước dằn và cặn nước dằn, 2004 (Công ước BWM 2004) và các công ước khác có liên quan. Đặc biệt các nội dung cụ thể của các công ước này đều được IMO cập nhật hướng dẫn, điều chỉnh nội dung hàng năm trên cơ sở thực tế hoạt động của ngành, lĩnh vực và công bố dưới dạng các phụ chương, phụ lục. Việc ban hành và cập nhật liên tục các công ước quốc tế liên quan đến phòng chống ô nhiễm môi trường đã góp phần hạn chế đáng kể các nguồn gây ô nhiễm và phòng ngừa các sự cố môi trường trong hoạt động hàng hải trên thế giới. Ngoài ra việc vận chuyển hàng hóa chất độc hại bằng đường biển còn chịu điều chỉnh bởi Công ước quốc tế về kiểm soát vận chuyển qua biên giới các chất thải nguy hại và việc tiêu hủy chúng (Công ước Basel 1989).

Xem tất cả 202 trang.

Ngày đăng: 17/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí