Nghiên giá trị văn hóa dân tộc Khmer tỉnh Sóc Trăng phục vụ cho phát triển du lịch - 3

6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN‌

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận văn được trinh bày trong 3 chương

- Chương 1. Cơ sở lí luận

- Chương 2. Giá trị văn hóa của dân tộc Khmer trong phát triển du lịch tỉnh Sóc Trăng

- Chương 3. Định hướng khai thác giá trị văn hóa người Khmer trong phát du lịch tỉnh sóc trăng

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1‌

CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DU LỊCH‌

1.1.1. Khái niệm du lịch‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội còn rất mới mẻ so với nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Ngày nay, du lịch được xác định là ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính ien ngành, ien vùng và xã hội hóa cao. Ngành khoa học về du lịch trên thế giới được hình thành vào đầu thế kỷ XX và đến nay vẫn đang trong quá trình hoàn thiện.

Thuật ngữ “Tourism” (Du lịch) hiện nay trở nên rất thông dụng. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của thuật ngữ này. Theo một số học giả du lịch bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Tonos” nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được la tinh hóa thành “Turnur” và sau đó trở thành một từ trong tiếng Pháp “Tour” có nghĩa là đi vòng quanh, đi dạo chơi, còn “Touriste” là người đi dạo chơi. Theo Robert Langquar (1980), từ “Tourism” lần đầu tiên xuất hiện trong tiếng Anh năm 1800 và được quốc tế hóa nên nhiều nước đã sử dụng trực tiếp mà không dịch nghĩa. Một số học giả khác lại cho rằng thuật ngữ du lịch không phải xuất phát từ tiếng Hy Lạp mà từ tiếng Pháp “le tour”, có nghĩa là một cuộc hành trình đến một nơi nào đó và quay trở lại, sau đó từ gốc này ảnh hưởng ra phạm vi tòan thế giới… Như vậy, nguồn gốc của thuật ngữ du lịch chưa có sự thống nhất, tuy nhiên điều cơ bản của thuật ngữ này đều bắt nguồn từ gốc là cuộc hành trình đi một vòng, từ một nơi này đến một nới khác và quay trở lại. Trong tiếng Việt, “Du lịch” là một từ Hán-Việt, trong đó “du” cũng có nghĩa tương tự như chữ “Tour” (du khảo, du ngoạn, du xuân…), “lịch” có nghĩa là sự từng trải.

Nghiên giá trị văn hóa dân tộc Khmer tỉnh Sóc Trăng phục vụ cho phát triển du lịch - 3

Trong mấy thập kỷ qua, kể từ khi thành lập Hiệp hội các tổ chức du lịch quốc tế (IUOTO – International of Union Official Travel Organization) tại Hà Lan năm 1925 đến nay, khái niệm du lịch vẫn luôn được tranh luận.

Trước đó, vào năm 1811 khái niệm về du lịch lần đầu tiên xuất hiện tại Anh: Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của các cuộc hành trình với mục đích giải trí. Khái niệm này nhấn mạnh giải trí là yếu tố quyết định đến hoạt động du lịch.

Năm 1930 ông Glusman, người Thụy Sỹ định nghĩa như sau: Du lịch là sự chinh phục không gian của những người đến một địa điểm mà ở đó có chỗ cư trú thường xuyên.

Theo hai học giả Hunziker và Krapf – hai người đặt nền móng cho lý thuyết về cung

– cầu du lịch đưa ra đinh nghĩa như sau: Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và không liên quan đến hoạt động kiếm lời. Khái niệm của hai ông đưa ra tương đối đầy đủ và bao quát các hiện tượng du lịch. Song khái niệm này chưa làm rõ được đặc trưng của các hiện tượng và của mối quan hệ du lịch.

Theo I.I.Pirojnic (1985): “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rảnh rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích nghỉ ngơi, giải trí, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức-văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá”.

Tháng 6 năm 1991, tại Otawa (Canađa), Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch là các hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài nơi ở thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian ít hơn thời gian được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”.

Theo Luật du lịch Việt Nam (2005): “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.

Tóm lại, khái niệm du lịch thể hiện mối quan hệ tác động tổng hợp của các yếu tố liên quan đến hoạt động du lịch. Trong điều kiện phát triển du lịch hiện nay, chúng ta có thể hiểu: “Du lịch là một tập hợp các hoạt động và dịch vụ đa dạng, liên quan đến việc di chuyển tạm thời của con người ra khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ nhằm mục đích tiêu khiển, nghỉ ngơi, văn hóa, dưỡng sức…và nhìn chung là vì những lý do không phải để kiếm tiền.” – Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO, 1994)

1.1.2. Tài nguyên du lịch‌

1.1.2.1. Khái niệm

Tài nguyên hiểu theo nghĩa chung nhất là tất cả các nguồn vật chất, năng lượng, thông tin có trên trái đất và trong không gian vũ trụ mà con người có thể sử dụng để thỏa mãn các

nhu cầu trong đời sống và sản xuất của mình. Tài nguyên được phân thành tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Tài nguyên thiên nhiên gắn liền với các nhân tố tự nhiên còn tài nguyên nhân văn gắn liền với các nhân tố về con người và xã hội.

Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung. Khái niệm tài nguyên du lịch luôn gắn liền với khái niệm du lịch. Tài nguyên du lịch luôn được coi là tiền đề, là điều kiện đặc biệt quan trọng để phát triển của du lịch. Bản ang tài nguyên du lịch cũng có tính lịch sử và có xu hướng ngày càng mở rộng do nhu cầu phát triển du lịch.

Pháp lệnh Du lịch Việt Nam (1999): “Tài nguyên du lịch là cảnh quan tự nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động ang tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch”.

Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Tài nguyên du lịch là cảnh quan tự nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử-văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”.

Như vậy, có thể hiểu rằng: Tài nguyên du lịch là những yếu tố tự nhiên hoặc nhân tạo có khả năng khai thác và sử dụng để thoả mãn nhu cầu du lịch.

1.1.2.2. Phân loại tài nguyên du lịch

a. Tài nguyên du lịch tự nhiên

- Địa hình : địa hình là những đặc điểm bên ngoài của bề mặt đất. Địa hình biểu hiện bằng các yếu tố như độ cao, độ dốc, trạng thái… Người ta thường chia tổng quát địa hình thành 3 dạng : miền núi, đồng bằng, biển và bờ biển.

Địa hình miền núi thường rất đa dạng và có nhiều khả năng thu hút khách du lịch. Có rất nhiều loại hình du lịch ở miền núi : du lịch thám hiểm, du lịch văn hóa, săn bắn, leo núi và thể thao, du lịch mạo hiểm… Địa hình núi thường có rừng, thác nước và hang động… Vì vậy, miền núi có nhiều hướng phát triển du lịch. Tuy nhiên, hạn chế của du lịch ở miền núi là giao thông khó khăn, cơ sở hạ tầng kém phát triển…

Địa hình biển và bờ biển có khả năng khai thác du lịch khá thuận lợi, nhất là du lịch biển : tắm biển, nghỉ biển, du thuyền ra đảo, lặn biển và các loại hình du lịch thể thao. Ngoài ra, biển có nhiều hải đảo nên khả năng khai thác rất đa dạng.

Địa hình đồng bằng thường đơn điệu nên ít có khả năng trực tiếp phát triển du lịch. Tuy nhiên, đồng bằng thường là nơi dân cư trập trung sinh sống nên cũng có khả năng phát triển du lịch.

- Khí hậu : Khí hậu có ảnh hưởng nhiều mặt đến đời sống con người. Trước hết, trạng thái của cơ thể con người gắn liền với các chỉ số sinh khí hậu, nhất là nhiệt độ và độ ẩm. Những nơi có khí hậu thích hợp thì thuận lợi để phát triển du lịch nghỉ dưỡng. Ví dụ ở Việt Nam, Sa Pa và Đà Lạt là hai điểm du lịch rất nổi tiếng.

Khí hậu còn tạo ra nhịp điệu mùa của du lịch. Thường thì mùa Hè là mùa du lịch của các vùng bãi biển nhiệt đới. Mùa Đông lại là mùa của các điểm du lịch thể thao ở các vùng ôn đới… Nhịp điệu mùa du lịch cũng có thể gián tiếp hình thành do mùa sinh hoạt của con người. Ví dụ, người Việt Nam có câu : “Tháng Giêng là tháng ăn chơi’’

- Nước : Nước có vai trò rất quan trọng đối với con người. Du lịch đòi hỏi phải đảm bảo cung cấp nước cho du khách. Nước còn là môi trường cho nhiều loại hình hoạt động du lịch : tắm, bơi lặn, du thuyền, lướt ván, câu cá, tham quan đáy biển….

Các hồ nước, thác nước, sông suối… cũng là những yếu tố có giá trị nhiều mặt đối với du lịch.

Nguồn nước khoáng còn là tiềm năng để hình thành các khu du lịch nghỉ dưỡng.

Trên thế giới có nhiều điểm du lịch nổi tiếng về nước khoáng.

- Sinh vật : Tài nguyên sinh vật cũng có giá trị du lịch rất to lớn. Các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên… là những nơi còn tồn tại nhiều loài động-thực vật nguyên sinh rất thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch văn hóa, tham quan nghiên cứu…

Các tài nguyên sinh vật còn có thể được tổ chức thành các điểm tham quan sinh vật hoang dã, bán hoang dã hoặc nhân tạo. Ví dụ các vườn thú, bảo tàng sinh vật, điểm nuôi các động vật hoang dã…

Tài nguyên sinh vật còn phục vụ cho loại hình du lịch săn bắn, câu cá…

+ Các hiện tượng tự nhiên đặc biệt : Có nhiều hiện tượng thiên nhiên độc đáo và đặc sắc tạo nên sự thu hút du khách. Ví dụ hiện tượng nhật thực, tuyết rơi, đêm trắng Bắc cực…

b. Tài nguyên du lịch nhân văn

- Di tích lịch sử - văn hoá. Di tích lịch sử văn hóa – đó là những gì mà quá khứ để lại. Di tích được chia thành 4 nhóm chủ yếu như sau :

+ Di tích khảo cổ : là những di tích liên quan đến các nền văn hoá cổ của loài người trên thế giới. Thường bao gồm những loại hình là di chỉ cư trú và di chỉ mộ táng.

+ Di tích lịch sử : liên quan đến các giai đoạn lịch sử khách nhau. Các di tích lịch sử thường là các nơi xảy ra các sự kiện lịch sử quan trọng như những trận đánh lớn, những kinh đô cổ, những địa điểm liên quan đến các nhân vật lịch sử…

+ Di tích kiến trúc nghệ thuật : là các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao tiêu biểu cho những thời kỳ lịch sử nhất định. Ví dụ như : đền tháp, đình, chùa, miếu, nhà thờ…

+ Danh lam thắng cảnh : đây là loại di tích đặc sắc trong đó có sự kết hợp yếu tố nhân tạo với tự nhiên. Các danh thắng thường thể hiện sự tính tế và sự tổ điểm của con người vào thắng cảnh thiên nhiên làm cho nó trở thành tuyệt tác. Ví dụ, núi Bài Thơ (Quảng Ninh), chùa Hương (Hà Tây)…

- Lễ hội : Lễ hội là những hình thức sinh hoạt cộng đồng của dân cư. Lễ hội có nhiều dạng nhưng thông thường đều bao gồm hai phần liên quan với nhau rất chặt chẽ : phần lễ mang tính lễ nghi, trang trọng nhằm tưởng niệm, hoặc cầu chúc… phần hội mang tính sinh hoạt vui chơi của cộng đồng. Đương nhiên có thể sự phân chia này cũng mang tính tương đối. Có thể có lễ hội hoà quyện cả hai phần làm một, có lễ hội thì phần lễ là chính hoặc có lễ hội lại chỉ có phần hội.

Lễ hội có sức hấp dẫn du lịch rất cao. Người ta thường ví nó như những bảo tàng sống về văn hoá của cộng đồng. Khách du lịch không chỉ tham quan, tìm hiểu lễ hội mà còn có thể tham gia vào các hoạt động lễ hội.

- Làng nghề truyền thống : Nghề thủ công truyền thống là những loại hình hoạt động kinh tế-xã hội rất phong phú. Nghề thủ công trên thế giới rất đa dạng có tính độc đáo nên có nhiều giá trị thu hút du lịch. Mặt khác, các sản phẩm thủ công cũng mang nhiều giá trị nghệ thuật nên đã trở thành những mặt hàng lưu niệm đối với du khách.

- Các đặc trưng văn hóa dân tộc : Đặc trưng văn hoá dân tộc thể hiện ở nhiều mặt như trang phục, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, lễ hội, hoạt động kinh tế, văn hoá nghệ thuật…. Vì vậy, khả năng khai thác du lịch cũng rất đa dạng và đặc sắc.

- Sự kiện văn hoá-thể thao : Có rất nhiều yếu tố thuộc nhóm này. Dưới đây là một số yếu tố cơ bản :

+ Các hội chợ, triển lãm : Hội chợ triển lãm rất đa dạng về loại hình và quy mô. Nó tạo ra khả năng thu hút nhiều loại đối tượng đến tham quan, mua sắm, tìm cơ hội thị trường… Hiện nay có xu hướng kết hợp hội chợ triển lãm với lễ hội. Ví dụ thế giới có rất

nhiều loại lễ hội mang tính chất quảng bá thương mại và du lịch như lễ hội bia, lễ hội trái cây, lễ hội sôcôla…

+ Các cuộc thi đấu thể thao, liên hoan âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, thi hoa hậu, thi âm nhạc….cũng là những sự kiện có tác động rất mạnh đến du lịch.

- Các tài nguyên du lịch nhân văn khác :

+ Bảo tàng : đây là những điểm tham quan du lịch rất có giá trị giúp cho du khách tìm hiểu về các di tích, các hiện vật và nhiều chủ đề khá tập trung và hấp dẫn.

+ Công trình và sản phẩm kinh tế : Ví dụ như các cầu lớn, các nhà máy thuỷ điện, các đập và hồ nước nhân tạo, các đặc sản ….

+ Giá trị văn hóa nghệ thuật, ẩm thực….

1.1.2.3. Vai trò của tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản để hình thành các sản phẩm du lịch (trong sản phẩm du lịch, tài nguyên chiếm giá trị từ 80-90%). Sản phẩm du lịch được tạo nên bởi nhiều yếu tố, song trước hết phải kể đến tài nguyên du lịch. Như vậy, việc đầu tư về phương tiện vật chất và dịch vụ để biến tài nguyên du lịch thành sản phẩm du lịch là một nghệ thuật kinh doanh trong lĩnh vực du lịch. Khách du lịch bị thu hút bởi Vịnh Hạ Long, Cố đô Huế hay Nha Trang, Đà Lạt… trước hết bởi giá trị của tài nguyên du lịch ở những nơi này. Chính sự phong phú và đa dạng của tài nguyên du lịch đã tạo nên sự phong phú và đa dạng về sản phẩm du lịch. Tài nguyên du lịch càng đặc sắc, độc đáo thì giá trị của sản phẩm du lịch càng cao.

Tài nguyên du lịch là cơ sở quan trọng để phát triển các loại hình du lịch. Trong quá trình phát triển du lịch, để không ngừng đáp ứng các nhu cầu du lịch ngày càng đa dạng của du khách, các loại hình du lịch mới xuất hiện và phát triển không ngừng.

Tài nguyên du lịch cũng là một cơ sở đặc biệt quan trọng cho việc phát triển các loại hình du lịch. Chúng ta luôn dễ dàng nhận thấy có sự tương quan chặt chẽ giữa các loại tài nguyên du lịch với các loại hình du lịch. Không có các hang động bí hiểm, các đỉnh núi cao hùng vĩ và hiểm trở, các khu rừng nguyên sinh âm u huyền bí thì không thể có các loại hình du lịch thám hiểm. Các loại hình du lịch văn hóa lại luôn gắn liền với các di tích lịch sử-văn hóa, lễ hội và nghề cổ truyền…

Tuy nhiên, không nên hiểu đơn giản rằng mỗi loại tài nguyên chỉ có thể phát triển một loại hình du lịch. Trên thực tế, tài nguyên du lịch chỉ là tiền đề, còn việc phát triển các loại hình du lịch nào lại thuộc về chiến lược và nghệ thuật kinh doanh du lịch. Ví dụ, tài

nguyên du lịch biển đảo có thể phát triển du lịch tắm biển, lặn biển, tham quan đáy biển bằng tàu đáy kính, du thuyền trên biển, thể thao trên biển….

Tài nguyên du lịch là một bộ phận quan trọng trong tổ chức lãnh thổ du lịch. Luật Du lịch Việt Nam có nêu : “Tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”. Điều đó có thể hiểu rằng tài nguyên du lịch chính là cơ sở để tổ chức lãnh thổ du lịch. Hệ thống lãnh thổ du lịch thể hiện mối quan hệ không gian của các yếu tố trong hoạt động du lịch. Các yếu tố đó là khách du lịch, tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất-kỹ thuật du lịch, đội ngũ cán bộ nhân viên và hệ thống điều hành quản lý du lịch.

Trong hệ thống lãnh thổ du lịch, tài nguyên du lịch được coi là yếu tố quyết định. Sự phân bố tài nguyên du lịch đã tạo nên các khu du lịch, điểm du lịch, cụm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch và vùng du lịch – tức là những biểu hiện của việc tổ chức hoạt động du lịch theo lãnh thổ. Có thể nói rằng : mọi quá trình tổ chức lãnh thổ du lịch đều bắt đầu và kết thúc bằng tài nguyên du lịch.

1.1.3. Sản phẩm du lịch‌

Sản phẩm là tất cả những gì con người làm ra để thỏa mãn nhu cầu của bản thân hoặc của xã hội. Sản phẩm du lịch là các dịch vụ hàng hóa cung cấp cho du khách dựa trên cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho khách một khoảng thời gian thú vị.

Theo M.M.Coltman : “Sản phẩm du lịch là một tổng thể bao gồm các thành phần không đồng nhất, hữu hình và vô hình. Sản phẩm du lịch có thể là một món hàng cụ thể như thức ăn, hoặc một món hàng không cụ thể như chất lượng phục vụ, bầu không khí tại nơi nghỉ mát”.

Theo Luật du lịch Việt Nam (năm 2005): “Sản phẩm du lịch là tập hợp những dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”.

Tựu chung lại, sản phẩm du lịch chính là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác tài nguyên du lịch đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.và các dịch vụ du lịch. Sản phẩm du lịch có thể biểu diễn theo công thức sau :

Sản phẩm du lịch = Tài nguyên du lịch + Dịch vụ du lịch

1.1.4. Khách du lịch‌

Khách du lịch được coi là yếu tố trung tâm trong hoạt động du lịch. Có thể hiểu đơn giản rằng: Khách du lịch (du khách) là người đi du lịch. Tuy nhiên để xác định rõ khách du lịch với những đối tượng khác, một số tác giả đã đưa ra định nghĩa như sau:

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 20/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí