của phóng sự giai đoạn này. Trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 29A [NXB Khoa học xã hội, H.1988], sau khi liệt kê một số tập phóng sự của Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam…viết về những mặt trái của hiện thực đời sống thị thành, tác giả Phan Cự Đệ nhận xét: “Tiếc rằng những phóng sự này mới dừng lại ở những hiện tượng bề mặt mà chưa đi sâu được vào bản chất, chưa phân tích được những nguyên nhân gây ra những ung nhọt của xã hội. Bút pháp tự nhiên chủ nghĩa đã miêu tả một cách chi tiết những câu chuyện dâm ô trụy lạc, gây một ảnh hưởng xấu đến người đọc” [62, 20].
Nhìn chung trong nhiều thập kỷ, ở miền Bắc, việc nghiên cứu thể loại phóng sự giai đoạn 1930 - 1945 đã được chú ý, tuy nhiên cách nhìn nhận, đánh giá chưa thật khách quan, toàn diện, một số ý kiến còn có phần chủ
quan, chưa thấy hết được thành tựu cùng những đóng góp quan trọng của
phóng sự giai đoạn này đối với văn học sử nói chung và sự phát triển thể loại phóng sự nói riêng.
Cùng trong khoảng thời gian này, ở miền Nam, cũng có những công trình nghiên cứu: Lược sử văn học Việt Nam (Nhà văn tiền chiến 1930 - 1945) của Thế Phong; Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3) của Phạm Thế Ngũ; Bảng lược đồ văn học Việt Nam của Thanh Lãng…đã quan tâm đến phóng sự giai đoạn 1930 - 1945. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu chỉ dừng lại ở một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu như Tam Lang, Vũ Trọng Phụng…mà chưa nhận diện toàn diện sâu sắc về cả một giai đoạn phát triển của thể loại phóng sự.
Từ sau 1975, đặc biệt từ sau đổi mới (1986), trong không khí đổi mới chung của xã hội, của cả nền văn học, những vấn đề của văn học quá khứ trong đó có phóng sự 1930 - 1945, đã được nhìn nhận, đánh giá chuẩn xác hơn. Trong một số bộ giáo trình như Văn học Việt Nam thế kỷ XX, tập 2, do
Trần Đăng Suyền chủ biên và các chuyên đề bài viết: Phóng sự và quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam của Hà Văn Đức; Lời giới thiệu bộ Tổng tập: Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945 - Một thành tựu của tiến trình văn học Việt Nam của Phan Trọng Thưởng; Phóng sự Việt Nam (1932 - 1945) - Những đóng góp đặc sắc về mặt nghệ thuật của Lê Dục Tú; Thể loại phóng sự trong văn học thế kỷ XX của Tôn Thảo Miên…các tác giả đã trở lại nhận diện, phân tích và đánh giá, khẳng định thành tựu rực rỡ của phóng sự trên cả hai phương diện nội dung xã hội và nghệ thuật thể hiện đặc sắc. Từ đó, khẳng định vị trí và đóng góp của phóng sự Việt Nam 1930 -1945 trong tiến trình hiện đại hóa văn học đầu thế kỷ XX nói riêng và văn học sử Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, các công trình, bài báo này mới chỉ dừng ở mức độ khái lược. Rất cần có sự khảo sát, đánh giá toàn diện, thấu đáo về thành tựu và đóng góp của phóng sự Việt Nam ở giai đoạn phát triển rực rỡ này.
3.2. Những công trình, bài viết riêng về từng cây bút:
Có thể bạn quan tâm!
- Phóng sự Việt Nam 1930 - 1945 Qua Tam Lang, Vũ Trọng Phụng và Ngô Tất Tố - 1
- Khái Niệm Phóng Sự - Khái Lược Về Phóng Sự Việt Nam Giai Đoạn 1930 - 1945
- Xung Quanh Khái Niệm Thể Loại Phóng Sự
- Phóng sự Việt Nam 1930 - 1945 Qua Tam Lang, Vũ Trọng Phụng và Ngô Tất Tố - 5
Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.
3.2.1. Tam Lang
Ngay khi ra đời Tôi kéo xe đã thu hút được sự quan tâm của công luận. Trên báo Loa (số 86, 10/10/1935), Trương Tửu đánh giá: “Ông Tam Lang đã tỏ ra có khiếu và tài là một nhà văn tả chân hoàn toàn”. “Tôi kéo xe là cuốn tiểu thuyết tả chân giá trị nhất trong văn học Việt Nam hiện đại”. Ở đó, bằng “tài quan sát và trí tưởng tượng…ông đã nhìn rõ cái nhục của hạng trung lưu không đáng quan tâm bằng cái khổ của hạng nghèo hèn, hạng vô học bị bóc lột không biết kêu vào đâu, luật pháp không bênh vực xiết, tôn giáo không an ủi nổi. Ông Tam Lang đã bỏ ái tình đi vào xã hội, ở đó ông tiến từ trưởng giả đến bình dân. Về cách phục diễn, ông đi từ lãng mạn đến tả chân thuần túy, từ hùng biện đến kịch thể. Lấy nhân sự làm tài liệu, lấy khách quan làm phương châm…”. Về nghệ thuật “câu văn ông vẫn dễ đọc và có tính cách An Nam. Văn Tam Lang rất điêu luyện…”. Nhìn lại “Từ
Giọt lệ sông Hương đến Tôi kéo xe, ông Tam Lang tiến bộ về các phương diện, cốt truyện, cách bố cục, cách viết, cách nghĩ, ông có con mắt quan sát của nhà xã hội, ông có trí tưởng của một nhà thi sĩ, ông có bình tĩnh của một nhà báo. Với ba đức tính này ông có thể trở thành một nhà văn đại tài” để “đem nghệ thuật phụng sự nhân dân”. Trên Tiểu thuyết thứ bảy (số 74, 26/10/1935), Hoài Thanh viết: “Điều cần nhất cho một người phóng viên là biết nghe, biết nhìn, biết tìm đến cái đáng nhìn và biết gợi những câu chuyện đáng nghe. Biết quan sát vậy. Biết quan sát rồi lại phải biết diễn những điều quan sát được ra câu văn. Ông Tam Lang có những tư cách ấy. Người ta thường khen ngợi ngòi bút tả chân của ông. Thực không quá đáng…Cái đặc sắc thứ nhất của văn Tam Lang ấy là chỗ hay tả và khéo tả những điều ghê tởm, một sự ít có trong làng văn nước ta”. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (NXB Tân Dân, 1942) khẳng định: Tôi kéo xe là tác phẩm phóng sự đầu tiên của Việt Nam, “một quyển phóng sự giá trị”, “những đoạn tả chân có đầy trong quyển Tôi kéo xe, làm cho người đọc cảm động và có sức cám dỗ một cách lạ”. Cùng với việc ngợi khen Tôi kéo xe, Vũ Ngọc Phan cũng đánh giá cao giá trị của Đêm sông Hương, thiên phóng sự đã phản ánh với “những màu đen tối, làm cho người đọc có cái cảm tưởng những nơi âm u tịch mịch là những nơi con quỷ dâm dục dễ hiện hành” và Lọng cụt cán “là một quyển ghi tất cả những cái dởm đời, những cái ích kỷ, những tính kiêu căng, những thói khoe khoang và những cái bất công trong xã hội Việt Nam. Những tật xấu ấy đã phô bày dưới một ngòi bút châm biếm chân chính, một ngòi bút chỉ biết phụng sự lẽ phải và sự công bình”. Tựu chung lại tác giả Nhà văn hiện đại đánh giá cao sáng tác của Tam Lang “cây bút tả chân và châm biếm”: “Trong những tập phóng sự và những tập châm biếm, trào phúng…những tư tưởng thật là luân lý, những tư tưởng thật là bác ái, bao giờ cũng có cái khuynh hướng bênh vực hạng người nghèo khổ, kém hèn, mà bênh vực vì lẽ phải, vì nhân đạo…”.
Ở miền Nam sau 1954, một số công trình nghiên cứu cũng đã đánh giá về phóng sự của Tam Lang. Tôi kéo xe đã được đưa vào dạy trong chương trình quốc văn lớp 8, do vậy đã có một số bài viết về tác phẩm này. Tiêu biểu là bài viết của Tam Ích Nhân đọc Tôi kéo xe của Tam Lang. Ở đó ông đánh giá cao lối viết tả chân “có sao nói vậy” của nhà văn.
Trong Tổng tập văn học Việt Nam tập 29 do NXB Khoa học xã hội ấn hành năm 2000, Tam Lang đã được dành vị trí xứng đáng: “Là cây bút “tả chân” và châm biếm sắc sảo…có đóng góp đáng kể vào sự hình thành của trào lưu văn học hiện thực phê phán và sự phát triển của văn học báo chí Việt Nam”…Tôi kéo xe được tôn vinh “là tập phóng sự ra đời sớm nhất…có ý nghĩa mở đầu cho sự phát triển thể loại phóng sự trong văn xuôi Việt Nam hiện đại và là một trong những tác phẩm đánh dấu sự phát triển của trào lưu văn học hiện thực Việt Nam những năm 1930 - 1945”.
3.2.2. Vũ Trọng Phụng
Sau Tôi kéo xe, sự xuất hiện hàng loạt phóng sự của Vũ Trọng Phụng: Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì, Một huyện ăn Tết…đã thực sự tạo được sự quan tâm của công luận, khiến “cái tên Vũ Trọng Phụng đã ra đời lừng lẫy trong chớp mắt” và nhanh chóng được vinh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Trong Lời tựa Kỹ nghệ lấy Tây, Phùng Tất Đắc ngợi ca “ngòi bút phóng sự của ông Vũ Trọng Phụng đã nói tới một độ rất cao trong nghệ thuật. Cuốn sách này…vào hàng những công trình ảnh hưởng xa rộng hơn, những công trình có thể vạch phương hướng cho văn nghệ, những công trình rút được tài liệu cho đời sau khảo xét về buổi này”. Sau khi Vũ Trọng Phụng qua đời, trên Tao đàn số đặc biệt tháng 12/1939, bạn bè, đồng nghiệp đánh giá cao văn tài của nhà văn. Tam Lang chân thành đề cao tài năng Vũ Trọng Phụng: “Đọc những thiên phóng sự ấy, tôi nhận thấy rằng Vũ Trọng Phụng, về mặt phóng sự - một lối văn do tôi khởi xướng
ra đầu tiên - đã bỏ xa tôi lắm”. Trên báo Tràng An, Mai Xuân Nhân đánh giá cao Kỹ nghệ lấy Tây, coi đó là một kiệt tác và chính “kiệt tác ấy đã đưa ông Vũ Trọng Phụng đến con đường bổn phận của một nhà cầm bút sống trong cái tình thế trầm trọng của một thời đại khó khăn, rối rít và đã xô lối phóng sự xứ này bước được một bước dài rất vẻ vang”. Chính trong bài viết này, Mai Xuân Nhân đã tôn vinh Vũ Trọng Phụng là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Lê Thanh trên Hà Nội báo số 34 ra ngày 26/8/1936 cũng nhận xét: “Bằng một thể văn tả thực, mới mẻ, chua chát, viết thiên phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây, ông Vũ Trọng Phụng đã lột hẳn tinh thần đối tượng…Ông đứng biệt ra một nơi, ghi lấy từng mảnh một tấn kịch vĩ đại hơn, hiện đang diễn ra ở xứ ta, do sự gặp gỡ của hai làn sóng, của hai thế giới gây nên”. Trên cơ sở khảo sát kỹ lưỡng phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã đánh giá một cách chân xác về Cơm thầy cơm cô, cho đó “là tập hay nhất của Vũ Trọng Phụng. Ngòi bút tả chân của ông thật là tuyệt xảo khi ông tả những cảnh nghèo khổ” [137, 577] . Vũ Ngọc Phan cũng đã phát hiện nhân vật tôi và nghệ thuật trần thuật đặc sắc trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Tuy nhiên, đương thời cũng có những ý kiến công kích gay gắt văn chương của Vũ Trọng Phụng. Tiêu biểu cho những ý kiến này là Thái Phỉ và Nhất Chi Mai. Trên tờ Tin văn (tháng 5/1936), trong bài viết “văn chương dâm uế”, Thái Phỉ lên án loại văn sĩ “viện cái chủ nghĩa tả chân” để tả cảnh dâm uế một cách táo bạo, quá đà khiến người đọc hoặc ghê sợ hoặc “rung động” một cách lệch lạc, kích thích mặt thú tính của con người. Nhất Chi Mai viết bài Ý kiến của một người đọc: Dâm hay không dâm đăng trên báo Ngày nay, số 51, ngày 14/3/1937, đả kích nhà văn Vũ Trọng Phụng, tác giả thiên phóng sự Lục xì là “một nhà văn nhìn thế giới qua cặp kính đen, có một bộ óc cũng đen và một nguồn văn càng đen nữa”. Ông tức tối lên án lối văn chương “đen tối”, “dơ dáy, bẩn thỉu, nhơ nhớp” của Vũ
Trọng Phụng. Với bài bút chiến Thư ngỏ cho ông Thái Phỉ, chủ bút báo Tân văn về bài “Văn chương dâm uế”, đăng trên Hà Nội báo số 38 ngày 23/9/1936 và bài “Để đáp lại báo Ngày nay: Dâm hay là không dâm?” đăng trên báo Tương lai số 37, ngày 25/3/1937, Vũ Trọng Phụng đã thẳng thắn bác lại ý kiến của Thái Phỉ và Nhất Chi Mai, đồng thời khẳng định quan niệm văn chương tiến bộ của mình: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời…các ông muốn theo thuyết tùy thời, chỉ nói cái gì thiên hạ thích nghe nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thật…”.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, trong Hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc (1949), nhà thơ Tố Hữu đã trân trọng ghi nhận công lao của Vũ Trọng Phụng: “…Cách mạng cám ơn Vũ Trọng Phụng đã vạch rõ cái thực xấu xa thối nát của xã hội ấy”. Trong bài giảng cho các khóa đào tạo văn nghệ kháng chiến năm 1950 Nguyễn Đình Lạp cũng đã đề cao đóng góp của Vũ Trọng Phụng về thể phóng sự.
Sau hòa bình (1954), phóng sự của Vũ Trọng Phụng một lần nữa thu hút được sự quan tâm của công luận. Nhà văn Nguyên Hồng đánh giá: Cạm bẫy người là tác phẩm mở đầu của khuynh hướng văn học hiện thực và “với hai thiên phóng sự đặc biệt Cơm thầy cơm cô và Lục xì và hai tiểu thuyết Số đỏ và Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã làm chuyển động cả dư luận văn học bấy giờ, giơ cao thêm ngọn cờ hiện thực, góp thêm một phần đấu tranh quyết liệt cho một nền văn học tiến bộ”. Trong cuốn Vũ Trọng Phụng với chúng ta (do Minh Đức xuất bản) cùng với việc đánh giá cao tiểu thuyết, các tác giả cũng đánh giá rất cao phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Theo Phan Khôi, Cơm thầy cơm cô, Kỹ nghệ lấy Tây, Cạm bẫy người đều là những tác phẩm thông cảm và tố khổ cho hạng người cùng khổ ở Việt Nam. Trong tiểu luận Vũ Trọng Phụng - nhà văn hiện thực, Văn Tâm đánh giá cao chủ nghĩa hiện
thực và tinh thần nhân đạo trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Tuy nhiên, chính trong giai đoạn này, một số bài viết lại phê phán văn chương Vũ Trọng Phụng. Trong Một vài ý kiến về tác phẩm Vũ Trọng Phụng trong Văn học Việt Nam, Hoàng Văn Hoan cho rằng, Lục xì và một vài tác phẩm khác của Vũ Trọng Phụng là “cả một ý thức thừa nhận thú tính, cổ lệ nhục dục”. Còn Vũ Đức Phúc thì nhận định: “Sáng tác của Vũ Trọng Phụng có một số yếu tố hiện thực tốt…nhưng những yếu tố ấy lại xen lẫn với nhiều yếu tố độc hại làm cho khá nhiều sáng tác bị hỏng đi một cách đáng tiếc”. Và “phần lớn phóng sự của Vũ Trọng Phụng xưa kia chỉ là những tiểu thuyết được “hư cấu” bằng cách lượm lặt những mẩu chuyện bên cạnh bàn đèn thuốc phiện”.
Đồng thời gian này ở miền Nam một số công trình nghiên cứu văn học sử cũng khảo sát và đánh giá cao phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Thế Phong trong Lược sử văn nghệ miền Nam khẳng định: “…Vũ Trọng Phụng có nghệ thuật chọn lọc xếp đặt, xây dựng thành hệ thống điển hình…Vũ Trọng Phụng đã thành văn hào vượt hẳn những bạn văn chương thời đó”. Phạm Thế Ngũ trong cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, sau khi giới thiệu tóm tắt bốn phóng sự của Vũ Trọng Phụng: Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì đã đánh giá cao phóng sự của Vũ Trọng Phụng: “Ta thấy tất cả những gì gọi là hài hước, bi đát, rùng rợn trong những vết thương xã hội lúc bấy giờ. Ta cũng thấy công phu điều tra, khiếu quan sát lịch duyệt của tác giả…Cây bút tả chân già dặn linh hoạt như chụp được sự thật…ông moi móc những vết thương xã hội ấy…và nói ra với một giọng mỉa mai chua chát, đôi khi đượm vẻ căm hờn”. Trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Thanh Lãng nhận xét: “Vũ Trọng Phụng trong Cạm bẫy người cho chúng ta thấy cái xã hội mà Phạm Quỳnh đã cùng ca ngợi chỉ là một xã hội giả dối, tội lỗi, xấu xa…còn gì sống động và cũng sượng sùng cho bằng những thiên điều tra của Vũ Trọng Phụng trong Cơm thầy cơm cô hay Lục xì! Truyện như trốn tránh kết cấu, chỉ còn là một sự diễn hành”.
Từ sau 1986, trong không khí đổi mới, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng trong đó có các tập phóng sự được tái bản nhiều lần, cùng với đó là những công trình nghiên cứu về văn nghiệp của Vũ Trọng Phụng. Trong đó nhiều công trình bài viết trở lại đánh giá cao di sản phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Trong bài giới thiệu Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Vũ Trọng Phụng thành công hơn cả ở thể tài phóng sự với Cạm bẫy người (1933) và Kỹ nghệ lấy Tây (1934). Hai tác phẩm này đã phát huy ở ông một sở trường quan sát sắc sảo, khả năng ký họa mau lẹ, linh hoạt và lối văn biến hóa hấp dẫn…”. Sau khi đánh giá xác đáng về sự nghiệp của “ông vua phóng sự” qua hai tập phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây và Cơm thầy cơm cô do Nhà xuất bản Hà Nội tái bản năm 1989, Nguyễn Đăng Mạnh đã phân tích cách tiếp cận của Vũ Trọng Phụng: “Cái gốc của tài năng Vũ Trọng Phụng xét đến cùng là ở tấm lòng đau đớn và đầy căm phẫn của một trí thức nghèo bị giày xéo và bị lăng nhục bởi cái xã hội xây dựng trên nguyên tắc của quyền lực bất công và đồng tiền phi nghĩa”. Trần Hữu Tá khi giới thiệu Tuyển tập Vũ Trọng Phụng đã nhấn mạnh: “Đằng sau những nhân vật Cạm bẫy người…người đọc phần nào thấy được hình ảnh của xã hội thành thị trụy lạc hóa hồi những năm 30 và tình trạng bần cùng, bế tắc, lưu manh hóa của loại tiểu tư sản lớp dưới và dân nghèo thành thị lúc bấy giờ”. Về nghệ thuật, tác giả cho rằng: “Khuynh hướng tiểu thuyết hóa ở một mức độ nào đấy là một đặc điểm của ngòi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng”. Vũ Ngọc Phan trong hồi ký Những năm tháng ấy, một lần nữa khẳng định vị trí và phần đóng góp rất lớn của Vũ Trọng Phụng đối với dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam: “Thời gian 30 - 40, anh là tay viết phóng sự cứng nhất trong số những nhà văn hiện thực nổi tiếng thời bấy giờ, anh là một kiện tướng”.
Từ năm 1988, Vũ Trọng Phụng được dành một vị trí xứng đáng trong giáo trình bậc đại học. Tham gia biên soạn bộ giáo trình của trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Hoành Khung nhận thấy, nổi bật trong phóng sự