16,5%, biến Tư vấn của tổ chức nghề nghiệp đóng góp 10,5% và cuối cùng thấp nhất là biến Quy mô DN đóng góp 9,4%. Trong 6 biến này, có 5 biến có mối quan hệ tỷ lệ thuận và 1 biến có quan hệ tỷ lệ nghịch (nợ vay) với biến phụ thuộc là việc vận dụng chuẩn mực kế toán trong các DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
Bảng 3.14. Bảng so sánh kết quả nghiên cứu với các nghiên cứu trong nước tại các DNNVV tại Việt Nam
Kết quả của luận án | Kết quả ở các địa phương khác tại Việt Nam | |||
Nguyễn Thị Phương Thảo (2019) [34] | Trần Đình Khôi Nguyên (2013) [35] | Nguyễn Thị Ngọc Điệp và cộng sự (2015) [33] | ||
Khu vực | DN ở Gia Lai | DNNVV tại Tiểu vùng Tây Bắc | DNNVV tại Đà Nẵng | DNNVV tại Thành phố HCM |
Qui mô DN | + | - | Không ảnh hưởng | + |
Kết quả/ khả năng sinh lời DN | Không ảnh hưởng | - | Không ảnh hưởng | Không xem xét |
Năng lực/ trình độ kế toán viên | + | - | + | + |
Sự quan tâm nhà quản lý | + | - | + | + |
Sự phát triển hạ tầng kế toán | Không xem xét | + | Không xem xét | + |
Tính bắt buộc tuân thủ | Không xem xét | - | Không xem xét | + |
Chế độ kế toán và thông tư | Không ảnh hưởng | + | Không xem xét | |
Tổ chức tư vấn nghề nghiệp | + | Không xem xét | + | Không ảnh hưởng |
Đặc điểm hệ thống CMKT | Không xem xét | + | Không xem xét | Không xem xét |
Kiểm toán/Thuế | + | Không xem xét | + | Không ảnh hưởng |
Cân đối CP – lợi ích | + | - | Không xem xét | Không ảnh hưởng |
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Vận Dụng Chuẩn Mực Kế Toán Trong Các Dnnvv Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai
- Phân Tích Và Đánh Giá Thang Đo Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Việc Vận Dụng Chuẩn Mực Kế Toán Trong Các Dnnvv Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai
- Biểu Đồ Tần Số Của Phần Dư Chuẩn Hóa Của Mô Hình 1
- Các Kết Luận Liên Quan Đến Nhân Tố Ảnh Hưởng Việc Vận Dụng Chuẩn Mực Kế Toán Tại Các Dnnvv Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai
- Những Hạn Chế Của Luận Án Và Hướng Nghiên Cứu Tiếp Theo
- Nghiên cứu việc vận dụng chuẩn mực kế toán – trường hợp các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Gia Lai - 19
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
(Nguồn: Phân tích của tác giả)
Nhận thức của chủ doanh nghiệp có quan hệ thuận chiều trong mô hình nghiên cứu, là nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình vận dụng chuẩn mực kế toán trong doanh nghiệp. Kết quả này cùng phù hợp với nghiên cứu của Trần Đình Khôi Nguyên [35] hay của Nguyễn Thị Ngọc Điệp và cộng sự [33] khi các nghiên cứu này nghiên cứu về sự quan tâm của nhà quản lý. Ở các DNNVV, thường thì người chủ cũng là người quản lý nên việc so sánh này có thể chấp nhận được. Kết quả này cũng đúng với dự đoán ban đầu là công việc kế toán của doanh nghiệp bị chi phối bởi yêu cầu của người chủ theo những mục đích riêng. Việc chủ DN có nhìn nhận và hoạch định chiến lược cho DN mình hay không, sử dụng nhân lực, vật lực như thế nào cho hiệu quả luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu trong DN. Chủ DN có trách nhiệm định hướng cũng như giúp đội ngũ nhân viên nói chung, kế toán viên nói riêng hiểu mục tiêu đặt ra ảnh hưởng đến công việc và trách nhiệm của họ. Nếu công tác kế toán được quan tâm và chú ý thì hiệu quả sẽ cao hơn và ngược lại…Qua phỏng vân sâu với các chuyên gia kế toán và chủ doanh nghiệp cho thấy, chủ sở hữu thường quan tâm đến kết quả trên BCTC tạo thuận lợi trong việc quan hệ với các tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng, nhiều trường hợp tại doanh nghiệp kế toán viên phải hạch toán theo yêu cầu của chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên, kết quả điều tra cũng cho thấy chủ doanh nghiệp đã thực sự quan tâm đến vai trò của thông tin kế toán, và điều này lý giải tại sao nhân tố này lại ảnh hưởng mạnh đến việc vận dụng chuẩn mực ở các DNNVV tại Gia Lai. Đây là một tín hiệu lạc quan để các DN phát triển công bằng và minh bạch hơn trên thị trường kinh tế.
Ảnh hưởng của nhân tố Trình độ kế toán viên: Nhân tố này có ảnh hưởng thuận chiều với tỷ lệ vận dụng chuẩn mực kế toán, và thống nhất với kết quả nghiên cứu trong nước tại các DNNVV tại Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh như ở bảng trên. Kết quả này cho thấy đội ngũ kế toán ở doanh nghiệp nào có nhân viên có chất lượng cao thì tỷ lệ vận dụng chuẩn mực cũng cao hơn các doanh nghiệp khác, kế toán viên giỏi có thể đối mặt với những ứng biến để giúp DN vượt qua khó khăn và phát triển bền vững. Họ là một mắt xích quan trọng để bộ máy của DN có thể hoạt động trơn tru và hiệu quả hơn. Không chỉ hạch toán ở nghiệp vụ mà kế toán viên còn có thể cung cấp thông tin để ban quản trị đề ra kế hoạch kinh doanh, hạn chế
các rủi ro, tăng cường các mối quan hệ với ngân hàng và các nhà đầu tư… Kết quả này cho thấy trình độ nhân viên có ý nghĩa quan trọng trong công tác kế toán của doanh nghiệp và phù hợp với nghiên cứu của nhiều nước về khả năng vận dụng chuẩn mực kế toán khi đội ngũ kế toán được đào tạo bài bản. Cũng cần lưu ý rằng, trình độ của kế toán viên liên quan đến công tác đào tạo, gồm đào tạo trong nhà trường và đào tạo thường xuyên sau khi người học tốt nghiệp các trường học. Nói cách khác, trong bối cảnh chuẩn mực kế toán trong giai đoạn vừa qua quá mới mẻ, việc cập nhật các kiến thức kế toán là không thể thiếu để phục vụ công tác kế toán. Thực trạng đào tạo nhân lực kế toán của chúng ta hiện nay nghiêng về giảng dạy theo Chế độ kế toán, trang bị kiến thức mang tính chất hình thức mà không phải tiếp cận theo hướng bản chất. Ngoài ra, công việc kế toán không thể là công việc của một cá nhân nào, mà là sự hợp tác của nhiều người trong bộ phận kế toán. Kết quả phân tích nhân tố cũng cho thấy mức độ đồng đều của kế toán viên cũng là một thuộc tính của đào tạo và trình độ nhân viên. Điều này đặt ra công tác tuyển dụng, cũng như đào tạo trong nội bộ doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến khả năng vận dụng chuẩn mực một cách thuận lợi.
Lợi ích khi vận dụng CMKT cũng ảnh hưởng đáng kể đến việc vận dụng CMKT tại các DNNVV tại Gia Lai. Hầu hết các kế toán viên đều cho rằng, việc vận dụng chuẩn mực kế toán trong các DNNVV sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận các khoản tín dụng, tạo khả năng mở rộng kinh doanh, thể hiện trách nhiệm với các cơ quan quản lý nhà nước và tăng cường trách nhiệm với cộng đồng kinh doanh. Kết quả này là một tín hiệu lạc quan về tầm quan trọng của thông tin kế toán đối với cộng đồng kinh doanh. Một khi nhận thức đúng đắn về điều này, nếu kết hợp với sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước về triển khai luật kế toán, việc vận dụng tốt chuẩn mực kế toán sẽ tạo điều kiện thuận lợi tạo lập môi trường thông tin minh bạch trong điều kiện kinh doanh lành mạnh, giảm thiểu những rủi ro cho toàn bộ các doanh nghiệp trong toàn hệ thống. Tuy nhiên, các ý kiến trên chỉ mới dừng ở góc độ đánh giá, ý kiến của kế toán viên, vì điều quan trọng hơn là ở chỗ vận dụng chuẩn mực kế toán như thế nào để đảm bảo thông tin kế toán có tính trung thực và hợp lý. Đây là điều cần phải tiếp tục nghiên cứu, vì từ góc độ ngân hàng,
nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng, họ chưa tin cậy vào báo cáo tài chính của các DNNVV khi thẩm định tài chính mà chỉ quan tâm đến doanh nghiệp khi đi vay có tài sản đảm bảo hay không? Ngoài ra, các đối tác kinh doanh như nhà cung cấp vẫn chưa có thói quen đọc BCTC của khách hàng để duy trì các mối liên hệ làm ăn lâu dài với các doanh nghiệp. Nói cách khác, các đối tượng trả lời đều thấy vai trò, lợi ích của việc công bố thông tin đối với hoạt động của mình. Việc vận dụng CMKT trong các DN một cách thường xuyên và đầy đủ cho thấy sẽ mang lại nhiều lợi ích nhất định cho doanh nghiệp: Cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển bền vững và thu hút vốn đầu tư, nâng cao tính minh bạch của thông tin tài chính, phản ánh trung thực tình hình của DN là điều mà các nhà đầu tư luôn tìm kiếm trong quá trình ra quyết định đầu tư của mình. Điều này giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận với nhiều dòng vốn trên thị trường, cải thiện được tính minh bạch và tính so sánh của BCTC trong các doanh nghiệp.
Vai trò của nhân tố Tư vấn từ tổ chức nghề nghiệp trong việc vận dụng chuẩn mực có quan hệ thuận chiều với tỷ lệ chuẩn mực kế toán vận dụng. Thông thường kế toán nhờ cộng đồng hay các tổ chức tư vấn giải đáp các nghiệp vụ, các trường hợp đặc biệt mà bản thân người kế toán chưa hiểu để xử lý thông tin kế toán. Do chuẩn mực kế toán có nhiều điểm còn mơ hồ nên việc yêu cầu, đề nghị các đơn vị cung cấp dịch vụ kế toán hướng dẫn là điều hoàn toàn phù hợp. Đối với kế toán viên, khi nhận được ý kiến tư vấn từ các tổ chức này sẽ tạo cho họ cảm giác yên tâm hơn trong chuyên môn, hạn chế được những rủi ro trong nghiệp vụ. Về mối quan hệ thuận chiều với mức độ chuẩn mực kế toán sử dụng, có nghĩa một khi nhờ tư vấn từ cộng đồng kế toán càng nhiều thì tỷ lệ chuẩn mực sử dụng càng cao. Giải thích về mối quan hệ này, tác giả cho rằng mỗi chuẩn mực gắn với mối đối tượng điều chỉnh cụ thể của kế toán, và như vậy, tư vấn của kế toán, kiểm toán, thuế thường liên quan đến các giao dịch kinh tế cụ thể (chuẩn mực kế toán liên quan).
Ngoài ra, hai nhân tố Quy mô doanh nghiệp và Mức độ sử dụng nợ vay cũng tác động đến việc vận dụng chuẩn mực kế toán trong các DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Về nhân tố ‘Qui mô doanh nghiệp’, kết quả điều tra cho thấy nhân tố này có quan hệ thuận chiều và có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu này phù hợp với
nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Điệp và cộng sự [33] khi nghiên cứu vận dụng CMKT tại các DNVVV ở thành phố Hồ Chí Minh; nhưng cũng chưa thống nhất với các nghiên cứu khác.
Tương tự là mức độ sử dụng nợ vay cũng có ý nghĩa thống kê trong mô hình nhưng có quan hệ ngược chiều với tỷ lệ chuẩn mực sử dụng. Về mặt giả thuyết đặt ra, kết quả nghiên cứu cho thấy nhân tố này không ủng hộ giả thuyết, nhưng việc nhân tố này có ý nghĩa trong mô hình cũng là điều cần xem xét. Khi trao đổi với các chuyên gia kế toán sau kết quả xử lý số liệu, một số ý kiến cho rằng các ngân hàng thương mại quan tâm đến tài sản đảm bảo và phương án kinh doanh đề xuất để quyết định cho vay hơn là dựa trên chất lượng BCTC. Ngoài ra, do BCTC của các DNNVV chưa được bắt buộc kiểm toán, nên nếu DN có lập BCTC thì báo cáo này chỉ mang tính tham khảo chứ chưa có ý nghĩa quan trọng trong quá trình ra quyết định. Do vậy tính liên quan cho người sử dụng thông tin tài chính là rất hạn chế.
Trái ngược với những dự tính ban đầu, kết quả khảo sát lại cho thấy nhân tố Hệ thống văn bản pháp luật kế toán không ảnh hưởng đến việc vận dụng chuẩn mực kế toán. Điều này có thể giải thích nhờ kinh nghiệm làm việc, trình độ của bản thân kế toán viên cùng với những ý kiến tư vấn từ tổ chức kiểm toán, cơ quan thuế ảnh hưởng lớn hơn đến công tác kế toán hằng ngày tại doanh nghiệp. Ngoài ra, do các hoạt động kinh tế ở các DNNVV ở Gia Lai rất đơn giản, chủ yếu liên quan đến mua và bán sản phẩm hàng hóa dịch vụ, mà kết quả thể hiện rò nhất là tỷ lệ sử dụng các chuẩn mực ở các DNNVV chưa cao và không đồng đều, nên kế toán ở các DNNVV không quá phụ thuộc vào các văn bản hướng dẫn khi áp dụng các chuẩn mực kế toán. Trong những tình huống phức tạp, không phổ biến tại DN mình, kế toán viên có thể thông qua tư vấn của các đơn vị dịch vụ kế toán, kiểm toán để hướng dẫn thực hiện công việc. Đó cũng chính là lý do giải thích tại sao Hệ thống văn bản pháp luật kế toán lại không có ảnh hưởng trong mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng chuẩn mực kế toán.
Tóm tắt Chương 3
Qua khảo sát thực tế và kết quả phân tích cho thấy: Việc vận dụng chuẩn mực kế toán trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Gia Lai không đồng đều, chủ yếu vận dụng các chuẩn mực liên quan đến các hoạt động phát sinh hàng ngày tại doanh nghiệp. Có thể thấy, hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam còn khoảng cách so với công tác kế toán thực tế trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng ta thấy việc vận dụng chuẩn mực kế toán chịu ảnh hưởng của sáu nhân tố trong đó nhân tố Nhận thức của chủ doanh là quan trọng nhất. So với các địa phương khác, Tây Nguyên mang đặc thù của vùng kinh tế mới nên tính chất vùng miền cũng tác động nhiều đến khả năng lãnh đạo trong DN. Chất lượng đào tạo kiến thức và kỹ năng còn nhiều hạn chế so với các địa phương khác. Điều này tác động không nhỏ trong nhận thức và vận hành chuẩn mực kế toán tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các yếu tố Trình độ kế toán viên và tư vấn của tổ chức nghề nghiệp thực sự cần thiết. Trình độ được cải thiện sẽ giúp kế toán viên tự tin vào kiến thức và kinh nghiệp khi xử lý nghiệp vụ cũng như nhờ được sự tư vấn của các tổ chức nghề nghiệp chuyên môn như kiểm toán, cán bộ thuế… tạo niềm tin để kế toán viên vận hành công tác kế toán linh hoạt và hiệu quả hơn.
CHƯƠNG 4: HÀM Ý CHÍNH SÁCH
4.1. Kết luận liên quan đến việc vận dụng chuẩn mực kế toán và các nhân tố ảnh hưởng tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Gia Lai
4.1.1. Kết luận liên quan đến việc vận dụng chuẩn mực kế toán tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Gia Lai
Việc vận dụng CMKT trong các DN có đóng góp giá trị to lớn đối với tính bền vững của nền kinh tế, cụ thể VAS tạo sự minh bạch và đồng thời, giúp nâng cao trách nhiệm giải trình bằng cách giảm bớt lỗ hổng thông tin giữa nội bộ và bên ngoài công ty. Thông qua áp dụng CMKT, các DN sẽ có thể được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế như tiếp cận nguồn vốn, duy trì năng lực cạnh tranh và phát triển một cách bền vững. Chính các nhà đầu tư tác động trong việc cải thiện tính minh bạch và tính so sánh của BCTC. Các BCTC có liên quan, có thể so sánh và phản ánh trung thực tình hình tài chính của tổ chức là điều mà các nhà đầu tư đang tìm kiếm trong việc đưa ra quyết định đầu tư của mình. Khi DN thể hiện được tất cả những hạn chế, sự kém hiệu quả của mình thông qua một bản BCTC minh bạch, trung thực thì các nhà đầu tư, chủ nợ sẽ hiểu rò về sức khỏe của DN, giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung cấp và rộng hơn là giảm thiểu rủi ro đối với xã hội.
Tuy nhiên, từ lý thuyết đến thực tiễn vận dụng vẫn còn những khoảng cách và khó khăn nhất định. Qua kết quả khảo sát tình hình vận dụng CMKT trong các DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai, tác giả đã có những kết luận riêng và chung về vấn đề này, cụ thể:
- Tỷ lệ vận dụng CMKT trong các DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai không giống nhau, được đánh giá ở mức trên trung bình, dao động từ 26,3% - 89,5% nghĩa là doanh nghiệp vận dụng ít chuẩn mực nhất chỉ ở mức 26,3% trong khi doanh nghiệp vận dụng nhiều chuẩn mực nhất đạt 89,5%. Không có doanh nghiệp nào vận dụng 100% chuẩn mực kế toán dùng cho DNNVV.
- Kết quả khảo sát trên bảng được chia thành ba nhóm. Các chuẩn mực có tỷ lệ sử dụng bình quân trên 80% được đánh giá là có mức độ sử dụng thường xuyên. Đó là các chuẩn mực sử dụng phổ biến liên quan đến các hoạt động kinh doanh
hàng ngày ở các DNNVV như: chuẩn mực chung, mua và bán hàng hóa, dịch vụ, TSCĐ hữu hình, chuẩn mực hàng tồn kho, thuế thu nhập doanh nghiệp... Đặc biệt, chuẩn mực trình bày BCTC (VAS 21) có tỷ lệ sử dụng cao (98,2%) đã phản ánh những nguyên tắc kế toán cơ bản trong đo lường và trình bày như là tham chiếu quan trọng trong công tác kế toán ở DN. Tỷ lệ trên 50% được đánh giá mức độ sử dụng trên trung bình, dưới tỷ lệ 50% được xem là các chuẩn mực có mức độ sử dụng thấp hay không sử dụng thường xuyên.
- Đối với nhóm CMKT vận dụng thường xuyên là nhóm chuẩn mực liên quan đến các hoạt động kinh tế phát sinh hàng ngày tại DN. Chuẩn mực HTK, chuẩn mực TSCĐ và chuẩn mực ghi nhận doanh thu và thu nhập khác đều được đánh giá với tỷ lệ cao ở mức độ đo lường và công bố thông tin. Một số chỉ tiêu vẫn còn thấp như lập dự phòng giảm giá HTK… Kết quả này phần nào phản ánh được một đặc trưng của kế toán Việt Nam là, một mặt Bộ Tài chính ban hành các CMKT, mặt khác lại hướng dẫn cụ thể thực hiện từng chuẩn mực thông qua các Thông tư hướng dẫn CMKT. Bên cạnh đó, việc tồn tại chế độ kế toán để thực hành chi tiết công việc kế toán kể cả việc yêu cầu trình bày BCTC theo khuôn mẫu thống nhất, người lập BCTC không có một khoảng nào để vận dụng linh hoạt các CMKT trình bày trong BCTC. Trong một số trường hợp vận dụng CMKT trở nên tốn kém trong khi mọi thứ đã được liệt kê sẵn ở chế độ kế toán và thông tư hướng dẫn. Điều này, làm cho việc chuyển tải nội dung của các chuẩn mực là khó thực hiện do bản thân CMKT chỉ mang tính hướng dẫn chung, khi cụ thể hóa sẽ khó tránh khỏi trường hợp không mô tả hết ý nghĩa của các chuẩn mực hoặc khối lượng quy định rất lớn và hệ thống kế toán không những không đơn giản mà trở nên cồng kềnh hơn.
Việc khảo sát và đánh giá các tỷ lệ vận dụng CMKT trong các DNNVV ở trên địa bàn này là hợp lý và phù hợp với đặc thù kinh tế của tỉnh. Do ở đó quy mô vốn hạn chế nên ít có các hoạt động góp vốn, đầu tư tài chính, đầu tư bất động sản, hay tham gia các hoạt động xuất nhập khẩu làm phát sinh các giao dịch liên quan đến ngoại tệ. Đối với trường hợp của chuẩn mực hợp đồng xây dựng, chuẩn mực này chỉ thích hợp với các DN xây lắp mà số lượng các DN này trên địa bàn tỉnh không nhiều. Vì thế, tỷ lệ sử dụng một số chuẩn mực trong các ngành này thấp là