của lộ trình cổ phần hóa là ưu tiên cho người lao động được mua cổ phần nên việc cổ phần bán ra bên ngoài là khiêm tốn. Vì vậy, các DNNVV tồn tại dưới loại hình công ty cổ phần trên địa bàn tỉnh có sự tách biệt quyền sở hữu và quản lý không nhiều dù trước đó có phải là công ty nhà nước hay không. Tính chất sở hữu không phải là một đặc thù điển hình của DNNVV trên địa bàn tỉnh. Sau khi được các chuyên gia cho ý kiến, tác giả đã loại nhân tố này ra khỏi mô hình nghiên cứu.
- Nhân tố Ảnh hưởng của các tổ chức tư vấn nghề nghiệp: Nhiều chuyên gia đều đánh giá vai trò quan trọng của tổ chức tư vấn nghề nghiệp như kiểm toán có ảnh hưởng đáng kế đến việc quyết định của công ty trong việc lựa chọn chuẩn mực kế toán. Nếu một DN được kiểm toán bởi một trong các hãng kiểm toán lớn thì tính minh bạch, đáng tin cậy của thông tin được nâng cao. Liên hệ với điều kiện các DNNVV tại Việt Nam nói chung và tại tỉnh Gia Lai nói riêng, qui định về kiểm toán chỉ áp dụng bắt buộc cho các công ty yết giá trên sàn chứng khoán, hoặc các tổng công ty nhà nước. Đối với các DNNVV thì không yêu cầu bắt buộc kiểm toán. Do vậy, việc đưa yếu tố kiểm toán vào sẽ không phù hợp. Tuy nhiên, tại Cục thuế (chi cục thuế) ở các tỉnh thành luôn có bộ phận tuyên truyền hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Trong một thời gian dài khi chưa có sự tách rời giữa kế toán và thuế, vai trò của bộ phận tuyên truyền rất lớn trong việc hướng dẫn kế toán các doanh nghiệp thực hiện hạch toán, qua đó vừa phục vụ kế toán cho mục đích tính thuế, vừa phục vụ công tác kế toán theo chế độ kế toán. Ngoài vai trò của tư vấn của bộ phận tuyên truyền của cơ quan thuế, các công ty kiểm toán ở Việt Nam còn có một bộ phận làm dịch vụ kế toán hay các doanh nghiệp làm dịch vụ kế toán khác. Chính sự tham gia của các công ty này cũng dự báo ảnh hưởng một phần đến quá trình vận dụng CMKT ở các DN tại Việt Nam. Trong điều kiện các DNNVV tại tỉnh Gia Lai, nhân tố này dự kiến tác động đến vận dụng chuẩn mực khi mà các điều kiện để các DN tự nghiên cứu triển khai chuẩn mực còn hạn chế.
- Nhân tố Tuổi doanh nghiệp: Theo ý kiến chuyên gia thông thường DN hoạt động càng lâu bộ máy kế toán càng hoạt động trơn tru, ăn khớp nên việc vận dụng CMKT sẽ tốt hơn. Khi đã có sự hiểu nhau nhất định giữa kế toán viên
và chủ doanh nghiệp thì các nghiệp vụ phát sinh thường xuyên, kế toán có kinh nghiệm nhất định để xử lý nhanh hơn, báo cáo kịp thời cho chủ DN. Các thức này khá phù hợp với đặc điểm hoạt động giản đơn trong DNNVV và giúp tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, một DNNVV có thể hoạt động lâu dài nhưng thay đổi nhiều bộ máy kế toán và ngược lại, một DN có thể mới hoạt động nhưng lại xây dựng được bộ máy kế toán chuyên nghiệp và đáng tin cậy hoặc thuê kế toán viên có kinh nghiệm làm công tác kế toán cho nhiều doanh nghiệp cùng một lúc. Sau khi tham khảo ý kiến chuyên gia, tác giả loại bỏ nhân tố khỏi mô hình nghiên cứu.
- Nhân tố Tính bắt buộc tuân thủ: Theo ý kiến chuyên gia thì theo quy định tại các DNNVV được phép áp dụng một trong hai chế độ kế toán hiện hành dành cho DN hoặc dành cho DNNVV nhưng cả hai chế độ kế toán này đều được xây dựng dựa trên bộ CMKT chung, cơ quan ban hành là Bộ Tài chính. Đây là những văn bản pháp luật mà mọi DN phải thực hiện.
- Nhân tố Lợi ích khi vận dụng chuẩn mực kế toán: Lợi ích của việc vận dụng được xem xét ở khả năng tiếp cận các khoản tín dụng từ ngân hàng, tính minh bạch của thông tin sẽ giúp tăng hình ảnh của doanh nghiệp trong cộng đồng kinh doanh và từ đó sẽ tạo điều kiện mở mang hoạt động kinh doanh. Các chuyên gia cho rằng, số liệu trên BCTC của DN như Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh tác động tích cực đến việc vận dụng CMKT cụ thể là mức độ công bố thông tin. Tuy nhiên, quan hệ giữa vận dụng chuẩn mực kế toán và lợi ích của vận dụng chuẩn mực vẫn còn bỏ ngò, là quan hệ hai chiều hay quan hệ giữa lợi ích của chuẩn mực đến vận dụng chuẩn mực kế toán. Mặc dù còn có những điểm chưa thống nhất, nhưng trên kinh nghiệm tư vấn của các chuyên gia vẫn kỳ vọng rằng chính lợi ích vận dụng chuẩn mực sẽ thúc đẩy các DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai tích cực triển khai vận dụng chuẩn mực. Do vậy, tác giả đưa nhân tố này vào mô hình để nghiên cứu chính thức.
Sau khi tổng hợp các hiệu chỉnh, bổ sung và thay đổi, kết quả như sau:
Bảng 2.2. Kết quả định tính về các nhân tố đưa vào mô hình
Mô hình đề xuất | Kết quả định tính | |
1 | Quy mô doanh nghiệp | Đưa vào mô hình |
2 | Kết quả hoạt động của doanh nghiệp | Đưa vào mô hình. Điều chỉnh lại thành hai nhân tố tách biệt: Khả năng sinh lời và mức độ sử dụng nợ vay |
3 | Nhận thức của chủ doanh nghiệp | Đưa vào mô hình |
4 | Áp lực cung cấp thông tin từ các đối tượng | Loại bỏ |
5 | Trình độ kế toán viên | Đưa vào mô hình |
6 | Tính chất sở hữu | Loại bỏ |
7 | Ảnh hưởng tổ chức tư vấn nghề nghiệp | Đưa vào mô hình |
8 | Tuổi của doanh nghiệp | Loại bỏ |
9 | Tính bắt buộc tuân thủ | Đưa vào mô hình. Điều chỉnh lại tên nhân tố: Hệ thống văn bản pháp luật về kế toán |
10 | Lợi ích vận dụng chuẩn mực kế toán | Đưa vào mô hình |
Có thể bạn quan tâm!
- Bảng Tổng Hợp Một Số Nghiên Cứu Về Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Vận Dụng Chuẩn Mực Kế Toán
- Tổng Hợp Nghiên Cứu Trong Nước Về Vận Dụng Chuẩn Mực Kế Toán
- Mô Hình Nghiên Cứu Và Phát Triển Giả Thuyết Nghiên Cứu
- Mô Hình Dự Tính Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Vận Dụng Cmkt
- Tình Hình Chung Các Dnnvv Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai
- Tình Hình Vận Dụng Chuẩn Mực Kế Toán Trong Các Dnnvv Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
2.1.2. Giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở tổng quan tài liệu nghiên cứu đã đề cập ở Chương 1 cùng với kết quả nghiên cứu thử nghiệm, mô hình các nhân tố dự tính ảnh hưởng đến việc vận dụng chuẩn mực kế toán trong các DNNVV ở Gia Lai vừa kế thừa các nghiên cứu trước nhưng có những điều chỉnh cho phù hợp với tình hình ở Việt Nam mà cụ thể ở Gia Lai. Các nhóm nhân tố thuộc về môi trường bên ngoài hay sự đa dạng của kế toán quốc gia không được đưa vào trong nghiên cứu này. Lý do, vì đây không phải là nghiên cứu liên quốc gia như các nghiên cứu về vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế, mà nghiên cứu này chỉ nghiên cứu chuẩn mực của một nước cụ thể, tại một địa phương cụ thể. Trong bối cảnh đó, các vấn đề về môi trường bên ngoài (như hệ
thống pháp lý, kinh tế, giáo dục, thuế…) được xem như là một biến kiểm soát lớn, giúp giải thích các kết quả định lượng mà mô hình sẽ xây dựng.
Trên cơ sở đó, luận án đưa ra các nhân tố bên trong DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai là chủ yếu. Đó là nhóm các nhân tố liên quan đến qui mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời, cấu trúc vốn, nhận thức của chủ doanh nghiệp, ảnh hưởng của cơ quan thuế/kiểm toán….Ảnh hưởng của các nhân tố dự tính được lập luận như sau:
Qui mô doanh nghiệp.
Trong nhiều nghiên cứu về kế toán, qui mô được xem là nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến việc vận dụng chuẩn mực kế toán như các công trình của Chow và Wong-Boren [70], Cooke [74] [75], Meek, Roberts và Gray [96]. Quy mô doanh nghiệp là nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS cho SMEs [87]. Nhân tố này có ảnh hưởng rộng vì nó liên quan đến lĩnh vực, địa bàn hoạt động của doanh nghiệp, nguồn lực tài chính, yếu tố con người, sự bất cân xứng thông tin giữa người quản lý và người chủ sở hữu. Các nghiên cứu cho thấy các DN có qui mô lớn thông thường hoạt động trên nhiều lĩnh vực, mức độ phức tạp của các nghiệp vụ kinh tế rất cao, do vậy việc vận dụng các chuẩn mực kế toán sẽ đầy đủ hơn. Ở một khía cạnh khác, các DN càng lớn thì chất lượng nguồn nhân lực thường được tốt hơn, kể cả nhân sự kế toán để triển khai vận dụng chuẩn mực kế toán. Các nghiên cứu ở Việt nam về nhân tố qui mô ảnh hưởng đến vận dụng chuẩn mực kế toán còn chưa có sự nhất quán về chiều hướng ảnh hưởng. Điều này một phần là do qui mô trong nhiều nghiên cứu của Đặng Ngọc Hùng [19], Nguyễn Thị Phương Thảo [34] và Nguyễn Thị Ngọc Điệp và cộng sự [33] còn đo lường trên cơ sở ý kiến của chuyên gia chứ không phải là các thông tin tài chính. Tại Gia Lai, các DNNVV cũng có sự khác biệt lớn về qui mô nên cũng ảnh hưởng đến việc vận dụng chuẩn mực, nên luận án cũng kỳ vọng về mối quan hệ thuận chiều giữa qui mô và việc vận dụng chuẩn mực. Đo lường qui mô bằng tổng giả trị tài sản của các DN, giả thuyết được đưa ra là:
Giả thuyết H1: DN có quy mô càng lớn thì mức độ vận dụng CMKT càng cao.
Khả năng sinh lời.
Khả năng sinh lời của một doanh nghiệp cũng được xem là một nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng đến chuẩn mực kế toán. Tuy nhiên, các nghiên cứu về ảnh
hưởng của nhân tố này cũng không nhất quán với nhau. Belkaoui và Kahl [56], Singhvi và Desai [159], Wallace và Naser [176] [177] cho rằng khả năng sinh lời có ảnh hưởng đáng kể. Các DN có khả năng sinh lời cao thường mở rộng địa bàn kinh doanh, tìm kiếm các nguồn tài trợ để thực hiện các phương án kinh doanh mới. Trong bối cảnh đó, việc vận dụng tích cực các chuẩn mực kế toán là tiền đề để thông tin công bố qua báo cáo tài chính trung thực và hợp lý; và đó là một trong những tiêu chí để các đối tác (ngân hàng, nhà đầu tư, cổ đông…) có thể xem xét trước khi ra các quyết định tài trợ. Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu khác của Dumontier và Raffournier [86], Inchausti [113] và Meek và cộng sự [129] lại cho rằng chưa có những chứng cớ chắc chắn về vấn đề này. Các nghiên cứu về khả năng sinh lời hay kết quả hoạt động chưa chỉ ra ảnh hưởng đối với việc vận dụng chuẩn mực kế toán ở Việt nam. Ở các DNNVV tại Gia lai, các DNNVV có khả năng sinh lời cao luôn có kế hoạch để mở rộng kinh doanh, qua đó cần nguồn tài trợ từ phía bên ngoài. Việc tuân thủ theo CMKT sẽ góp phần làm BCTC của các DNNVV có tính tin cậy hơn, góp phần hoàn thiện hồ sơ khi vay các ngân hàng thương mại. Do vậy, giả thuyết được đưa ra là:
Giả thuyết H2: DN có khả năng sinh lời càng lớn thì mức độ việc vận dụng CMKT càng cao.
Mức độ sử dụng nợ vay.
DN được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau như vốn chủ sở hữu, vốn vay ngân hàng hay các khoản nợ khác. Chính các nhà tài trợ cho các nguồn vốn của DN đã tác động không nhỏ đến việc DN phải sử dụng, tuân thủ các CMKT để có thể đáp ứng nhu cầu thông tin cho người sử dụng. Trên phương diện áp dụng chuẩn mực quốc tế, các nghiên cứu cho thấy nếu doanh nghiệp tham gia sâu rộng vào thị trường vốn quốc tế, như yết giá trên các sở giao dịch chứng khoán nước ngoài, vay vốn của quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng thế giới… thì ảnh hưởng đáng kể đến việc vận dụng chuẩn mực kế toán [182]. Nghiên cứu của Sekely và Collins [154] cho thấy có mối quan hệ thuận chiều giữa mức độ sử dụng chuẩn mực với mức độ sử dụng nợ vay ngân hàng. Ngược lại, các công ty ít sử dụng nợ vay hay vốn chủ huy động từ chính chủ doanh nghiệp thì lại ít quan tâm sử dụng chuẩn mực kế toán vì
thông tin không cần thiết phải chia sẻ với các đối tượng khác.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về ảnh hưởng của việc sử dụng nợ vay (cấu trúc vốn) đối với vận dụng CMKT còn ít. Trong trường hợp các DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai, hồ sơ vay vốn luôn bao gồm báo cáo tài chính để thực hiện một phần khâu thẩm định tài chính. Nếu DNNVV vận dụng tốt chuẩn mực kế toán sẽ góp phần làm tăng tính tin cậy của báo cáo tài chính. Đây là một điểm cộng trong quá trình thẩm định tài chính để tiếp cận các khoản tài trợ từ ngân hàng. Do vậy, giả thuyết đưa ra là:
Giả thuyết H3: DN sử dụng nợ vay ngân hàng càng lớn thì mức độ việc vận dụng CMKT càng cao.
Nhận thức của chủ doanh nghiệp.
Kế toán được xem là một công cụ của người quản lý để kiểm tra, giám sát mọi hoạt động và vận hành của DN. Các tác giả Page [140], Collis và Jarvis [72] cho rằng người chủ doanh nghiệp thường quan tâm đến việc kê khai thuế hơn là quan tâm đến tuân thủ quy định kế toán trong việc áp dụng chuẩn mực kế toán, điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng thông tin cung cấp trên báo cáo tài chính. Tuân thủ quy định thuế luôn được ưu tiên hơn tuân thủ quy định kế toán, vì thế mà chất lượng thông tin cung cấp trên báo cáo tài chính thường kém do việc tuân thủ các nguyên tắc trong chuẩn mực không được thực hiện. Trong nhiều trường hợp, kế toán được vận dụng như là một phương tiện để kê khai thuế theo quản lý của nhà nước, chứ nhiều chủ doanh nghiệp chưa thật sự quan tâm đến vai trò quản lý của kế toán.
Đối với các DN có qui mô vừa mà có thể tham gia yết giá trên thị trường chứng khoán, yêu cầu minh bạch và công khai tài chính luôn có tính bắt buộc. Người chủ sở hữu và người quản trị thường quan tâm đến việc áp dụng chuẩn mực khi tổ chức công tác kế toán. Các nghiên cứu ở Thụy sĩ cho rằng, nếu vận dụng tốt các chuẩn mực thì khả năng tìm kiếm các hợp đồng kinh doanh sẽ nhiều hơn và như vậy sẽ tăng đáng kể lợi nhuận cho công ty. Đối với các DNNVV ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu của Trần Đình Khôi Nguyên [35], Nguyễn Thị Ngọc Điệp và cộng sự [33] cũng đã cho thấy: sự quan tâm của người chủ, người quản lý cũng ảnh hưởng thuận chiều đến việc vận dụng chuẩn mực kế toán. Nghiên cứu này cũng kỳ
vọng vào mối quan hệ thuận chiều ở các DNNVV tại tỉnh Gia Lai khi sự chỉ đạo của người chủ ảnh hưởng rất lớn đến nhiều chức năng quản lý, trong đó có công tác kế toán. Từ đây, giả thuyết được đưa ra là:
Giả thuyết H4: Nhận thức của chủ doanh nghiệp về vị trí của công việc kế toán có tác động tích cực đến việc vận dụng CMKT.
Trình độ của kế toán viên.
Năng lực nhân viên kế toán thể hiện ở kỹ năng, trình độ của nhân viên cho phép họ hoàn thành trách nhiệm về công việc kế toán của mình [179].
Lịch sử phát triển của kế toán các nước cho thấy, sự phát triển của kế toán có liên quan đến mức độ giáo dục và chuyên nghiệp của kế toán viên. Để tuân thủ đúng quy định về việc áp dụng chính sách kế toán đặc biệt là ápdụng thành công IAS, người kế toán cần phải được giáo dục đầy đủ kiến thức và kinh nghiệm thực tế về IFRS bởi đây là yếu tố quan trọng để tuân thủ các quy định kế toán trong việc áp dụng IAS [183]. Nghiên cứu ở nhiều nước cho thấy kế toán có trình độ đại học càng nhiều thì khả năng vận dụng các chuẩn mực ngày càng cao. Điều này phù hợp với thực tế vì những kiến thức trong quá trình đào tạo sẽ giúp kế toán viên có nhận thức tốt hơn về khoa học kế toán, có khả năng vận dụng, lựa chọn các kỹ thuật, các chính sách kế toán phù hợp để tối đa hóa lợi ích của DN mình. Do vậy, việc ban hành chuẩn mực và vận dụng nó vào trong thực tiễn đòi hỏi kế toán viên phải có những kiến thức nhất định và lĩnh hội những tư tưởng để vận dụng các chuẩn mực vào công tác kế toán.
Ở góc độ này, tác giả cho rằng quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường đã làm thay đổi nhiều trong nhận thức của người làm kế toán, nên cần xem đây là một nhân tố không thể thiếu. Kết quả của nhiều nghiên cứu trước tại Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ ra mối quan hệ thuận chiều giữa năng lực kế toán viên với vận dụng chuẩn mực [33][35]; tuy nhiên nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Thảo [34] về vận dụng chuẩn mực tại các DNNVV ở tiểu vùng Tây Bắc cho thấy quan hệ nghịch chiều. Tuy nhiên, luận án vẫn kỳ vọng vào quan hệ thuận chiều vì con người là yếu tố quyết định đến quá trình xử lý thông tin kế toán khi họ có am hiểu kiến thức về chuẩn mực kế toán. Các vấn đề đo lường và công bố thông tin trong mỗi chuẩn mực đòi hỏi người làm kế toán phải có năng lực nhất định, không thể dựa vào máy móc tính toán.
Do vậy, giả thuyết đặt ra là:
Giả thuyết H5: Trình độ của kế toán viên càng cao thì mức độ vận dụng CMKT càng lớn.
Ảnh hưởng của tư vấn tổ chức nghề nghiệp
Những nghiên cứu nguyên thủy về vấn đề này thường liên quan đến mối quan hệ giữa việc vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế của các DN với các tổ chức kiểm toán. Al-Baskeki [46] cho rằng DN kiểm toán có ảnh hưởng đáng kế đến việc quyết định của công ty trong việc lựa chọn chuẩn mực kế toán, đặc biệt là các chuẩn mực quốc tế. Nghiên cứu này đã chỉ ra vai trò của các hãng kiểm toán độc lập trên thế giới. Nếu một DN được kiểm toán bởi một trong các hãng kiểm toán lớn thì thông thường, DN đó quan tâm nhiều hơn đến việc vận dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế.
Liên hệ với điều kiện các DNNVV tại Việt Nam nói chung và tại tỉnh Gia Lai nói riêng, qui định về kiểm toán chỉ áp dụng bắt buộc cho các công ty yết giá trên sàn chứng khoán, hoặc các tổng công ty nhà nước. Đối với các DNNVV thì không yêu cầu bắt buộc kiểm toán. Do vậy, việc đưa yếu tố kiểm toán vào sẽ không phù hợp. Tuy nhiên, tại Cục thuế (chi cục thuế) ở các tỉnh thành luôn có bộ phận tuyên truyền hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Trong một thời gian dài khi chưa có sự tách rời giữa kế toán và thuế, vai trò của bộ phận tuyên truyền rất lớn trong việc hướng dẫn kế toán các doanh nghiệp thực hiện hạch toán, qua đó vừa phục vụ kế toán cho mục đích tính thuế, vừa phục vụ công tác kế toán theo chế độ kế toán. Ngoài vai trò của tư vấn của bộ phận tuyên truyền của cơ quan thuế, các công ty kiểm toán ở Việt Nam còn có một bộ phận làm dịch vụ kế toán hay các doanh nghiệp làm dịch vụ kế toán khác. Chính sự tham gia của các công ty này cũng dự báo ảnh hưởng một phần đến quá trình vận dụng CMKT ở các DN tại Việt Nam.
Khi xem xét tổng quan các nghiên cứu trong nước thì vai trò của nhân tố này cũng không rò ràng. Nghiên cứu của Đặng Ngọc Hùng [19] và Trần Đình Khôi Nguyên [35] cho thấy ảnh hưởng thuận chiều đến vận dụng chuẩn mực, nhưng nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Điệp và cộng sự [33] lại cho thấy ko có