mà việc ngăn chặn và tìm thủ phạm trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Có thể nói chưa bao giờ nguy cơ bị xâm phạm hình ảnh cá nhân lại cao như hiện nay, bất cứ ai cũng có thể trở thành nạn nhân bị xâm phạm về quyền hình ảnh.
Đối với vấn đề quyền cá nhân đối với hình ảnh của mình thì Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng đã quy định khá cụ thể. Tuy vậy, có vẻ những quy định đấy vẫn chưa đủ “mạnh” để buộc mọi người từ bỏ thói quen sử dụng không xin phép hình ảnh của người khác. Vậy đâu mới là giải pháp cho vấn đề này? Trước thực tế trên, bản thân tôi xin chọn đề tài “Quyền cá nhân đối với hình ảnh theo pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu, tìm hiểu, với mong muốn làm rõ thêm về quyền cá nhân về hình ảnh, cũng như thực trạng phương pháp bảo vệ quyền nhân thân về hình ảnh trong xu thế phát triển hội nhập ở Việt Nam hiện nay.
2. Tổng quan tài liệu
Liên quan đến chế định quyền nhân thân đã có nhiều người viết về các quy định chung về quyền nhân thân, các quy định về quyền nhân thân trong việc hiến các bộ phận cơ thể người, quyền hiến xác, quyền xác định lại giới tính hay như quyền nhân thân trong bí mật đời tư, cụ thể là:
- Bài viết “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân” của PGS.TS. Bùi Đăng Hiếu trên tạp chí luật học số 7 năm 2009, tr 40.
- Đề tài khoa học cấp trường, Đại học Luật Hà Nội năm 2008 của TS. Lê Đình Nghị, “Bàn về khái niệm quyền bí mật đời tư”.
- Bài viết: “Quyền cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật một số nước phương tây – đối chiếu với pháp luật Việt Nam” của tác giả Chu Tuấn Đức.
- Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Việt Nam tập 1 của tác giả Hoàng Thế Liên.
- Luận văn thạc sỹ: “Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân theo Bộ luật dân sự năm 2005” của tác giả Lê Hương Trà năm 2008.
- Luận văn thạc sỹ: “Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá nhân theo quy định của BLDS năm 2005” của tác giả Lê Thị Hoa năm 2006.
Có thể bạn quan tâm!
- Quyền cá nhân đối với hình ảnh theo pháp luật Việt Nam - 1
- Khái Quát Chung Về Quyền Nhân Thân Gắn Với Hình Ảnh Của Cá Nhân
- Quyền cá nhân đối với hình ảnh theo pháp luật Việt Nam - 4
- Ý Nghĩa Của Việc Bảo Vệ Quyền Nhân Thân Đối Với Hình Ảnh Của Cá Nhân
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
- Luận văn thạc sỹ: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lý luận và thực tiễn về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh theo quy định trong pháp luật Dân sự Việt Nam” của tác giả Phùng Bích Ngọc năm 2011.
- Các bài báo, tạp chí, tọa đàm, khóa luận có bắt đầu đề cập đến vấn đề này nhưng vào các thời điểm khác nhau trong khi tình hình thực tiễn và pháp luật có nhiều thay đổi, mang tính chất bước ngoặt nên chưa toàn diện và chưa đầy đủ về mặt pháp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Vì vậy, tác giả đã mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này, mới mục đích là đưa ra những giải pháp để giải quyết những tồn tại, vướng mắc của pháp luật quy định về quyền cá nhân về hình ảnh, cũng như việc áp dụng chế định luật này trong thực tiễn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử: Vật chất quyết định ý thức, đời sống kinh tế xã hội quyết định đời sống chính trị, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và sự tác động ngược trở lại của thượng tầng kiến trúc với hạ tầng cơ sở, pháp luật dân sự nói chung, chế định nhân thân, và quyền các quy định về quyền các nhân đối với hình ảnh nói riêng thuộc phạm trù của kiến trúc thượng tầng nên tất yếu chịu sự chi phối của đời sống kinh tế, văn hóa xã hội. Do đó việc nghiên cứu đề tài sẽ không tách khỏi nguyên lý trên. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật với tình huống thực tế, với các quy định của luật pháp các nước trên thế giới để tìm ra những hợp lý, bất cập trong quy định của pháp luật.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích phản ảnh các vụ việc trong thực tiễn
xét xử liên quan đến quy định của pháp luật hiện hành về quyền cá nhân đối với hình ảnh.
- Phương pháp điều tra xã hội: Phỏng vấn, khảo sát.
4. Tính mới và ý nghĩa của luận văn
Là một trong nhiều người tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật về dân sự nói chung và chế định về quyền cá nhân đối với hình ảnh theo pháp luật Việt Nam nói riêng, bằng phương pháp phân tích, so sánh đã nói ở trên, cùng với thực tiễn trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật luận văn đã hệ thống hóa các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền cá nhân về hình ảnh, ngoài ra luận văn còn nêu bật lên thực tế của các hành vi xâm phạm hình ảnh, thực trạng áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền cá nhân về hình ảnh trong thực tiễn hiện nay. Từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới về các quy định quyền cá nhân về hình ảnh.
5. Nội dung nghiên cứu của luận văn
Nội dung nghiên cứu trong đề tài luận văn này là nội dung của quyền cá nhân về hình ảnh, về các thực trạng quy định của quyền cá nhân về hình ảnh, đồng thời nghiên cứu các phương pháp bảo vệ quyền cá nhân về hình ảnh và những quy định của pháp luật nói chung là pháp luật dân sự nói riêng về quyền nay.
6. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập chung nghiên cứu những vấn đề sau đây:
- Về quyền nhân thân của cá nhân của cá nhân – quyền nhân thân không gắn với tài sản.
- Quyền cá nhân với hình ảnh
- Các quan điểm quyền cá nhân về hình ảnh ở một số nước trên thế giới
- Thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền cá nhân về hình ảnh.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được trình bày theo 03 phần
- Lời mở đầu
- Nội dung
- Kết luận
Trong đó nội dung gồm 04 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền nhân thân và quyền nhân thân gắn với hình ảnh của cá nhân
Chương 2: Các hình thức xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh
Chương 3: Trách nhiệm do vi phạm quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN VÀ QUYỀN NHÂN THÂN GẮN VỚI HÌNH ẢNH CỦA CÁ NHÂN
1.1. Khái niệm chung về quyền nhân thân của cá nhân
1.1.1. Khái niệm nhân thân
Có thể nói rằng trong các vấn đề của xã hội loài người thì quyền con người nói chung và quyền công dân nói riêng là những vấn đề có tính lịch sử lâu đời cả về phương diện lí luận cũng như thực tiễn. Quyền công dân nói chung được chia làm năm nhóm: Nhóm các quyền chính trị, nhóm các quyền dân sự, nhóm các quyền kinh tế, nhóm các quyền văn hóa và nhóm các quyền xã hội và pháp luật dân sự là công cụ để thực hiện nhóm các quyền dân sự của công dân. Mỗi cá nhân đều luôn có nhu cầu đảm bảo sự tồn tại và phát triển, kéo theo đó là các nhu cầu về tư tưởng, tinh thần, nó gắn liền với hai loại quyền đó là quyền về tài sản và các quyền về nhân thân. “Quyền nhân thân” là thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ những quyền gắn liền với bản thân của mỗi con người, gắn liền với đời sống riêng tư của mỗi cá nhân và quyền này có liên quan mật thiết đến danh dự, nhân phẩm, uy tín... Do đó quyền nhân thân là một quyền rất quan trọng trong các quyền dân sự, cũng bởi chính lý do này mà quyền nhân thân là một trong những nội dung cơ bản của quyền con người đã được pháp luật thế giới nói chung và pháp luật Việt Nam thừa nhận và bảo vệ.
Để hiểu rõ hơn về quyền nhân thân của cá nhân thì trước hết chúng ta cùng làm rõ khái niệm “nhân thân”.
Khái niệm “nhân thân” được hiểu theo hai khía cạnh sau đây. Một là: theo từ điển Tiếng Việt “Nhân thân được hiểu là tổng hợp các đặc điểm về thân thể, tính cách và cuộc sống cá nhân của con người, về mặt thi hành pháp luật” [24].
Hai là: Dưới góc độ pháp lý thì hiện nay chưa có văn bản nào đề cập đến khái niệm “nhân thân”, xong chúng ta có thể tham khảo khái niệm nhân thân đề cập đến trong công trình nghiên cứu cấp bộ với đề tài: Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân theo quy định của BLDS của Tòa án nhân dân tối cao thì:
Nhân thân của một người bao gồm các đặc điểm sau: giới tính, độ tuổi, dân tộc, thành phần văn hóa, nghề nghiệp, điều kiện sống, hoàn cảnh gia đình, quá trình hoạt động chính trị xã hội, tính tình, tác phong...Mỗi người có một nhân thân riêng và chính nó biểu thị đặc điểm liên quan đến nhận thức và hành vi của từng người...[38].
Như vậy khái niệm nhân thân được hiểu là một khái niệm rộng, bao trùm nhiều đặc điểm khác nhau, và quan trọng nhất là các đặc điểm này phải liên quan mật thiết đến một cá nhân cụ thể.
1.1.2. Khái Niệm quyền nhân thân
Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với đời sống tinh thần của cá nhân được pháp luật thừa nhân và bảo vệ. Trong lịch sử lập pháp của nước ta nói chung và pháp luật dân sự nói riêng, thuật ngữ quyền nhân thân được ra đời khá muộn. BLDS Việt Nam 1995 là văn bản pháp lí lần đầu tiên đề cập đến quyền nhân thân, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hiện thực hóa quyền con người. Lần đầu tiên pháp luật Việt Nam xác định rằng:
Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Không ai có thể lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác [25].
Bên cạnh đó, lần đầu tiên cá nhân có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền nhân thân của mình không bị người khác vi phạm (Điều 27). Lần đầu tiên quyền nhân thân của cá nhân được quy định thành một hệ thống các quyền, có 20 quyền được quy định chi tiết trong 20 Điều luật.
BLDS năm 1995 đã góp phần làm ổn định các quan hệ dân sự nói chung, quan hệ nhân thân nói riêng, các chủ thể có được công cụ pháp lý hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các quan hệ xã hội, các quan hệ dân sự ngày càng phức tạp hơn, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi những giá trị thuộc về tinh thần đang dần tìm được chỗ đứng quan trọng trong đời sống cá nhân. Với những quyền nhân thân được quy định trong BLDS năm 1995 so với thực tiễn đã có những sự thiếu hụt rất lớn, việc sửa đổi BLDS năm 1995 là tất yếu xảy ra.
Từ đó sự ra đời của BLDS 2005 đã kế thừa những quy định về nhân thân trong BLDS năm 1995 và đã quy định cụ thể về quyền nhân thân tại Điều 24: "Quyền nhân thân được quy định trong Bộ Luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” [28, Điều 24]. Theo quy định tại điều luật này thì quyền nhân thân sẽ có hai đặc điểm:
Một là: Quyền nhân thân mang đặc tính quyền cá nhân, không bị chi phối, phụ thuộc bởi bất kỳ yếu tố khách quan nào như: Độ tuổi, trình độ văn hóa, giới tính, tôn giáo, địa vị xã hội...cũng bởi điều này mà pháp luật quy định mọi chủ thể đều bình đẳng về quyền nhân thân.
Hai là: Quyền nhân thân của chủ thể không thể chuyển dịch cho chủ thể khác được. Nghĩa là: Quyền nhân thân không thể là đối tượng trong giao dịch dân sự (mua, bán, tặng, cho...). Tuy nhiên trong một số trường hợp quyền nhân thân có thể được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Quyền công bố, phổ biến tác phẩm của tác giả, khi tác giả chết thì quyền này có thể chuyển giao cho chủ thể khác hay các quyền khác về tinh thần của tác giả đối với tác phẩm như quyền được tôn trọng tác phẩm. Hoặc các quyền nhân thân gắn liền với tài sản có thể được phép chuyển giao...
Nhìn vào hai đặc điểm này của quyền nhân thân thì chúng ta thấy một vấn đề đặt ra là: Nếu như theo quy định trên thì quyền nhân thân chỉ gắn liền với mỗi cá nhân cụ thể thì theo quy định tại Điều 604 và Điều 611 BLDS năm 2005 đã đề cập đến: “Danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác” [28]. Vậy, một vấn đề đặt ra là những quyền được quy định tại hai Điều luật trên đây của pháp nhân và chủ thể khác có được xem là quyền nhân thân không? Và nếu pháp nhân và chủ thể khác cũng là chủ thể của quyền nhân thân thì liệu đặc tính “Quyền cá nhân hóa” trong quyền nhân thân có còn tồn tại? Tại Điều 1 Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định rằng:
Thiệt hại do tổn thất của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu [7, Điều 1].
Như vậy: Theo quy định tại Nghị định này đã thừa nhận các quyền nhân thân đối với pháp nhân và các chủ thể khác. Từ việc phân tích trên đây cho thấy quyền nhân thân có thể mở rộng phạm vi chủ thể quyền nhân thân không chỉ bao hàm cá nhân mà còn bao gồm các chủ thể khác như: pháp nhân, tổ chức...
Thông qua các quy định trong BLDS, cũng như các quy định của các văn bản pháp luật khác thì chưa có một khái niệm về quyền nhân thân một cách rõ ràng. Tính đến thời điểm hiện nay thì khái niệm này mới chỉ được trình bày trong các công trình nghiên cứu khoa học như: