và cơ sở gây ô nhiễm để từ đó đánh giá khi thẩm định tín dụng và quyết định cấp tín dụng.
Đồng thời, NHNN cần ban hành hướng dẫn xây dựng báo cáo về ngân hàng xanh với các chỉ tiêu đánh giá cụ thể, rõ ràng, đưa việc phát triển ngân hàng xanh vào một khuôn khổ ổn định. Để đảm bảo việc giám sát đầy đủ các chính sách và quy định, cơ quan tài chính cần yêu cầu các ngân hàng báo cáo thường xuyên (hàng tháng hoặc hàng quý) về tiến độ thực hiện của họ, tương tự như Hàn Quốc. Báo cáo phải được thực hiện định kì, yêu cầu các ngân hàng báo cáo bảo đảm những nội dung sau: quản trị và cơ cấu tổ chức, hệ thống chính sách và năng lực tài chính, quản lý quy trình, kiểm soát nội bộ và công bố thông tin cập nhật Danh mục dự án xanh… Hệ thống chỉ tiêu đánh giá sự phát triển hoạt động ngân hàng xanh nên được phân loại theo 2 nhóm: Nhóm định tính: ví dụ Hệ thống phân phối; Tính đa dạng của sản phẩm xanh; Tính minh bạch trong chính sách; Tính chặt chẽ trong quy trình triển khai và kiểm soát; Tính ổn định của hệ thống, cơ cấu tổ chức; Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ nhân viên… và Nhóm định lượng: Thị phần tín dụng xanh, Dư nợ tín dụng xanh; Thu nhập từ tín dụng xanh, Tỷ lệ nợ xấu, …Việc này sẽ giúp cơ quan quản lý có được căn cứ để so sánh mức độ quan tâm và tiến trình phát triển ngân hàng xanh của các NHTM, xem biến động và đánh giá sự chênh lệch, từ có có được cái nhìn tổng quan để xây dựng/điều chỉnh các chính sách. Đồng thời, việc đặt các NHTM vào một khuôn khổ so sánh cũng sẽ tạo động lực cạnh tranh và đẩy mạnh sự phát triển.
Thứ hai, nâng cao nhận thức về ngân hàng xanh, tín dụng xanh.
Đẩy mạnh vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng, truyền thông, mạng xã hội…và các công cụ thiết thực để tăng cường sự hiểu biết cũng như nâng cao nhận thức của người dân, và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong các hoạt động sản xuất xanh, dịch vụ xanh, tiêu dùng xanh, ngân hàng xanh. Phải nhân rộng quy mô nhận thức của toàn xã hội, xuất phát từ cá nhân đến doanh nghiệp, đến các tổ chức, làm sao để yếu tố “xanh” len lỏi đến cuộc sống thường ngày (như sáng kiến thẻ tín dụng xanh của Hàn Quốc). Việc này cũng cần xét đến các đối tượng khác nhau mà có phương thức truyền thông phù hợp, ví dụ nâng cao nhận thức về môi trường với
người trẻ/đã quen thuộc với công nghệ thì có thể tận dụng sức mạnh của mạng xã hội kèm nội dung cần năng động, trẻ trung, với các đối tượng người trung niên/không sử dụng nhiều công nghệ thì phải có các hình thức tuyên truyền trực tiếp khác thay thế chú trọng đến lợi ích đi kèm, với doanh nghiệp/tổ chức thì nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, có thể tổ chức các hội thảo/chương trình đào tạo, cũng như nâng cao năng lực của các ngân hàng, TCTD đối với hoạt động này…
Chính phủ cũng có thể tác động để thay đổi thói quen sử dụng tiền mặt của người dân để đẩy mạnh dịch vụ ngân hàng điện tử. Tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp đồng bộ, chuyển động số mạnh mẽ trong phạm vi quản lý nhà nước như điện lực, xăng dầu, bưu chính viễn thông, học phí, viện phí, nước sạch, cước phí giao thông, truyền hình cáp, thu thuế… Bộ Giao thông vận tải có thể tích hợp với dịch vụ của các NHTM trong thu phí không dừng giao thông đường bộ, Tập đoàn Điện lực mở rộng việc triển khai thu hộ tiền điện trực tuyến, Tổng cục Thuế triệt để trong thu thuế không tiền mặt....
Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực ngân hàng xanh
Có thể bạn quan tâm!
- Bài Học Rút Ra Từ Hoạt Động Ngân Hàng Xanh Của Hàn Quốc
- Thực Trạng Phát Triển Ngân Hàng Xanh Tại Việt Nam
- Một Số Đề Xuất Nhằm Tăng Cường Phát Triển Ngân Hàng Xanh Tại Việt Nam
- Nghiên cứu về ngân hàng xanh Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam - 15
- Nghiên cứu về ngân hàng xanh Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam - 16
- Nghiên cứu về ngân hàng xanh Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam - 17
Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.
Hội nhập và hợp tác quốc tế là xu hướng toàn cầu. Việc này sẽ mở ra nhiều tiềm năng và cơ hội để phát triển ngân hàng xanh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn Toàn cầu hóa và hội nhập đã, đang và sẽ mở ra cho nước ta nhiều cơ hội để phát triển tín dụng xanh nhanh hơn và hiệu quả hơn. Theo đó, Chính phủ cũng như NHNN cần tích cực hợp tác quốc tế với các nước đã có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng xanh để thiết kế thành công các chính sách hỗ trợ hiệu quả cũng như các hệ thống thống kê, báo cáo, quản trị và kiểm soát hoạt động ngân hàng xanh. Cơ quan quản lý, các Bộ ban ngành, NHNN cũng nên là cầu nối để kết nối hoạt động ngân hàng trong nước với các tổ chức, các định chế tài chính quốc tế, các ngân hàng lớn trên thế giới để tiếp cận nguồn vốn trung và dài hạn phong phú, cũng như công nghệ, quy trình tối ưu để đẩy nhanh tiến độ xanh hoá. Chính phủ nên từng bước dỡ bỏ chính sách quản lý và bảo hộ quá chặt chẽ đối với hệ thống ngân hàng, để các ngân hàng Việt Nam tham gia vào các tổ chức tài chính khu vực và thế giới, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực tài chính, đưa các chương trình hợp tác xây dựng cơ sở
hạ tầng, đầu tư thương mại điện tử vào kế hoạch phát triển hàng năm, hợp tác triển khai các dự án thương mại điện tử có quy mô quốc gia theo tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ tư, phát triển đồng bộ các thị trường tài chính xanh, như là thị trường trái phiếu xanh nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng bền vững
Việc này sẽ tạo bước đệm cho ngân hàng có thể huy động vốn xanh trên thị trường. Trong bối cảnh phục hồi sau COVID-19, các quốc gia được khuyến khích “Build back better” để tạo ra một nền kinh tế bền vững và bao trùm hơn, có khả năng chống chịu với khí hậu. Ở Việt Nam, rõ ràng là duy trì tốc độ tăng trưởng ấn tượng đồng thời tăng cường khả năng chống chịu với khí hậu và giải quyết suy thoái môi trường là một nhiệm vụ đầy thách thức. Ước tính Việt Nam cần ít nhất 35 tỷ USD vào năm 2030 để giải quyết các tác động khí hậu và đạt được mục tiêu Quốc gia đã xác định. Trái phiếu xanh sẽ mở ra một kênh huy động vốn mới cho các dự án đầu tư dài hạn trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng và năng lượng tái tạo vốn chưa được các sản phẩm tài chính truyền thống đáp ứng đầy đủ.
Xem xét tình trạng thị trường trái phiếu xanh còn non trẻ ở Việt Nam, nhà nước cần tập trung hơn vào việc xác định các khoản đầu tư xanh đủ điều kiện, đưa ra khung pháp lý cần thiết để thiết lập thị trường trái phiếu xanh cũng như củng cố cơ sở nhà đầu tư cho thị trường trái phiếu xanh. Thí điểm phát hành trái phiếu xanh thông qua các loại hình tổ chức phát hành khác nhau (doanh nghiệp, chính quyền, các thành phố trực thuộc TW..). Đồng thời cần duy trì sự phát triển lâu dài của thị trường trái phiếu xanh với nguồn nhân lực mạnh mẽ được đào tạo tốt và áp dụng công nghệ tiên tiến bằng cách liên kết với các tổ chức quốc tế mạnh để xây dựng các chương trình nâng cao năng lực với một loạt các sự kiện đào tạo cho thị trường trái phiếu xanh của Việt Nam. Đồng thời, học hỏi từ Trung Quốc, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng các hướng dẫn về trái phiếu xanh để khuyến khích phát hành trái phiếu xanh và cung cấp các hướng dẫn cho các ngân hàng. Các yếu tố cơ sở hạ tầng và kinh tế là những yêu cầu quan trọng để phát triển thị trường trái phiếu xanh hiện tại ở Việt Nam. Cần có sự phối hợp giữa nhà nước và tư nhân, khu vực trong nước và nước ngoài, liên kết giữa các tổ chức tài chính, ngân hàng và doanh nghiệp, các nhà cung cấp giải pháp công nghệ để tối đa hóa nguồn lực phát triển. Ngoài việc phát hành thí điểm trái phiếu
chính quyền địa phương xanh, các cơ quan chức năng cần phối hợp xây dựng một kế hoạch tổng thể để thực hiện phát hành trái phiếu xanh phù hợp với thông lệ quốc tế tại Việt Nam. Theo đó, cần có văn bản quy phạm pháp luật ở cấp độ Nghị định của Chính phủ về chương trình trái phiếu xanh quy định mục đích sử dụng vốn phát hành trái phiếu, cơ chế hạch toán vốn phát hành trái phiếu, báo cáo tình hình sử dụng vốn và chính sách thuế như cơ sở để thực hiện.
3.2.2 Đối với hệ thống ngân hàng
Thứ nhất, xây dựng khung chiến lược về ngân hàng xanh và các quy định nội bộ về quản lý rủi ro môi trường và xã hội.
Các ngân hàng cần tập trung xây dựng khung chiến lược về ngân hàng xanh, tín dụng xanh. Dựa trên những chỉ đạo, hướng dẫn từ cơ quan quản lý và tuỳ thuộc vào định hướng kinh doanh, phân khúc thị trường, sản phẩm và khách hàng mục tiêu, năng lực cũng như thế mạnh của mình mà từng ngân hàng cần xây dựng khung chiến lược về ngân hàng xanh và lộ trình theo cấp độ phù hợp để phát triển ngân hàng xanh toàn diện. Đồng thời, các ngân hàng cần phải chủ động nghiên cứu để xây dựng, và hoàn thiện các hệ thống tiêu chí đánh giá rủi ro về môi trường – xã hội một cách toàn diện trong quy trình thẩm định cấp tín dụng hoặc hoạt động đầu tư, mở rộng thêm các sản phẩm dịch vụ của mình, phải kết hợp đánh giá rủi ro môi trường như một phần trong đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng. Hệ thống này sẽ giúp ngân hàng đánh giá, đo lường và phân loại một cách chính xác, đầy đủ các mức độ rủi ro về môi trường của dự án, để tiến hành hạn chế hoặc từ chối khi có rủi ro cao, tác động xấu.
Theo đó, các ngân hàng nên:
(1) Phân công vai trò và trách nhiệm rõ ràng ở cấp hội đồng quản trị và trên tất cả các lĩnh vực chức năng để đáp ứng các mục tiêu chiến lược của ngân hàng về tính bền vững. Thiết lập hệ thống quản lý hiệu quả và phân bổ nguồn lực đầy đủ. Tăng cường trách nhiệm của Hội đồng quản trị liên quan đến quản lý rủi ro. Xác định các nhiệm vụ cụ thể của Hội đồng quản trị và các ủy ban, cơ quan quản lý và giám sát cấp cao của Hội đồng quản trị. Cải thiện các yếu tố chính của khuôn khổ quản trị công ty, chẳng hạn như văn hóa rủi ro, khẩu vị rủi ro hoặc liên quan đến khả năng
chấp nhận rủi ro của các ngân hàng. Tăng cường nội bộ cơ chế kiểm soát của các ngân hàng.
(2) Thiết lập các chính sách, hệ thống quản lý hiệu quả, bao gồm kiểm soát rủi ro, tuân thủ và các thủ tục đảm bảo của bên thứ ba để đảm bảo rằng các mục tiêu và chỉ tiêu phát triển bền vững được tích hợp vào tất cả các quá trình ra quyết định trong toàn ngân hàng. Nó đòi hỏi một văn hóa kinh doanh và thực hành hàng ngày, trong đó tất cả nhân viên hiểu vai trò của họ trong việc thực hiện mục tiêu của ngân hàng và tích hợp tính bền vững trong công việc của họ. Giáo dục và đào tạo nhân viên để phát triển nhận thức và chuyên môn phù hợp, đặc biệt về các vấn đề bền vững liên quan đến lĩnh vực công việc tương ứng của họ.
(3) Tích cực trao đổi thông tin và tích hợp hiệu suất liên quan đến các mục tiêu bền vững của ngân hàng và khả năng lãnh đạo ngân hàng có trách nhiệm vào các đánh giá hiệu quả hoạt động, các chế độ đãi ngộ và các quyết định thăng tiến
Thứ hai, thành lập đơn vị chuyên trách để triển khai và giám sát hoạt động ngân hàng xanh
Ngân hàng cũng nên thành lập đơn vị chuyên trách về quản lý rủi ro môi trường từ cấp trụ sở đến các chi nhánh để thực hiện và giám sát hoạt động ngân hàng xanh. Học hỏi từ kinh nghiệm từ các ngân hàng trên thế giới, một bộ phận chuyên trách một khi được thành lập sẽ nhằm đưa ngân hàng trở thành một doanh nghiệp dẫn đầu trong các cam kết đối với môi trường, xã hội và tài chính bền vững. Bộ phận chuyên trách của ngân hàng có chuyên môn và kinh nghiệm phù hợp sẽ giúp ngân hàng có được các quyết định đúng đắn trong việc thẩm định các vấn đề liên quan đến môi trường, cũng như đào sâu về việc đánh giá sự tác động tới môi trường xã hội của các kế hoạch tài chính trong các dự án, dịch vụ của ngân hàng để giúp khách hàng tập trung vào các mục tiêu dài hạn của phát triển bền vững. Sau khi nghiên cứu, đánh giá tác động môi trường, bộ phận chuyên trách sẽ thực hiện tư vấn cho khách hàng, hỗ trợ khách hàng nghiên cứu, triển khai các giải pháp và dịch vụ cho nhà đầu tư để đối phó với biến đổi khí hậu và các thách thức về môi trường khác. Bộ phận chuyên trách cũng có nhiệm vụ đào tạo và xây dựng các chính sách, quy trình thống nhất, tập hợp,
khuyến khích các sáng kiến nội bộ để toàn bộ ngân hàng với các đơn vị thành viên của nó cùng nhau giảm thiểu tác động của ngân hàng tới môi trường.
Bộ phận chuyên trách cũng có trách nhiệm báo cáo và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý trong việc theo dõi các khoản tín dụng, đánh giá và báo cáo về việc thực hiện sử dụng nguồn vốn vay của doanh nghiệp để có các giải pháp kịp thời ngăn chặn hoặc xử lý đối với khoản vay sử dụng sai mục đích, gây hậu quả hoặc tác động nghiêm trọng đến môi trường - xã hội. Điều này mang đến lợi ích cho doanh nghiệp, và cũng gián tiếp tác động giảm thiểu rủi ro, tăng cường sự ổn định tài chính và bảo vệ thương hiệu của ngân hàng trên thị trường để phát triển bền vững.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện chính sách tín dụng xanh phù hợp và toàn diện
Các ngân hàng Việt Nam nên thay đổi quan điểm và nhận thức về những người được lợi từ tín dụng xanh, tín dụng có trách nhiệm và các chương trình tín dụng thân thiện với môi trường. Tín dụng xanh chưa phát triển ở Việt Nam do các ngân hàng chưa nhận thức đầy đủ về bản chất của nó, coi nó là “sự ưu ái” của Chính phủ và xã hội là người hưởng lợi chính chứ không phải tư lợi của ngân hàng. Quan điểm này nên được thay đổi. Pháp luật luôn đi sau cuộc sống, vì vậy nếu có thể tạo ra các mô hình tín dụng xanh thành công thì có thể nhanh chóng thuyết phục các nhà hoạch định chính sách sớm thông qua các cơ chế khuyến khích nhằm đơn giản hóa thủ tục phê duyệt các dự án xanh, phí / lệ phí / thuế đối với tín dụng xanh cũng sẽ cạnh tranh hơn và tiết kiệm, phù hợp.
Chính sách tín dụng xanh cần phải dựa trên khung chiến lược chung của ngân hàng, căn cứ trên định hướng kinh doanh, phân khúc thị trường cũng như khách hàng mục tiêu và sản phẩm lợi thế, và dựa trên năng lực và thế mạnh của mình. Nó phải bao hàm được tất cả phương thức tài trợ vốn hoặc cho vay có tính đến tác động môi trường, chú trọng phát triển bền vững. Thông thường, chính sách tín dụng cần phải có các nội dung như: Mục tiêu, định hướng hoạt động tín dụng, đối tượng khách hàng, quy mô, giới hạn tín dụng, lãi suất và phí, thời hạn, kỳ hạn, tài sản đảm bảo cũng như cơ chế dành cho các khoản tín dụng có vấn đề, chính sách cho vay cụ thể cho từng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau… Đồng thời, chính sách phải phù hợp với khuôn khổ pháp lý quốc gia, và tiến tới đáp ứng được các quy chuẩn quốc tế.
Thứ tư, đa dạng hoá các sản phẩm xanh
Ngân hàng cần chú trọng nghiên cứu, khảo sát khách hàng, học hỏi và nắm bắt xu thế để đưa ra và đa dạng hoá các sản phẩm xanh phù hợp, đáp ứng được nhu cầu của thị trường và làm thoả mãn nhiều đối tượng khách hàng đặt trên tương quan với nguồn lực của mình. Đa dạng nhưng không giàn trải, có nhiều sản phẩm nhưng cũng có những sản phẩm lợi thế phát huy được tiềm năng và tận dụng được các yếu tố có sẵn để thu hút và giữ chân được khách hàng. Đồng thời cần chú trọng hoạt động marketing những sản phẩm mới này đến gần hơn với khách hàng. Các NHTM cần phải kiên trì và có nhiều giải pháp tiếp thị, đưa ra các sản phẩm phù hợp với từng đối tượng khách hàng, như: sinh viên, giới trẻ, công nhân, viên chức, người làm kinh doanh,… với đa dạng các kênh tiếp thị khác nhau.
Thứ năm, nâng cao năng lực cạnh tranh về ngân hàng xanh
Năng lực này bao gồm năng lực về vốn, nhân lực và công nghệ.
Về nhân lực: Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao được đào tạo bài bản giàu kinh nghiệm, phục vụ công tác quản lý rủi ro và đặc biệt là thẩm định cấp tín dụng tại các cơ sở Ngân hàng. Công tác đào tạo về quản trị rủi ro môi trường, xã hội cho toàn thể các cán bộ, nhân viên ngân hàng cần được thường xuyên chú trọng thực hiện để cả hệ thống hoạt động hiệu quả. Ngân hàng cũng có thể thực hiện liên kết với các trường đại học chuyên ngành, đưa các nội dung này vào chương trình học hoặc tổ chức các buổi hội thảo, các chuyên đề, cuộc thi giải thưởng để khuyến khích các sáng tạo xanh cho hoạt động ngân hàng, góp phần tạo niềm tin, uy tín và thương hiệu của ngân hàng với khách hàng. Đẩy mạnh các chương trình hỗ trợ nghiên cứu phát triển cho các nhà nghiên cứu, tạo điều kiện và/hoặc hình thành các chương trình vườn ươm (Incubator), chương trình gia tốc (Accelerator); khuyến khích hình thành và kêu gọi sự đầu tư của các Quỹ đầu tư khởi nghiệp, sáng tạo trong nước và quốc tế. Các NHTM cũng cần khẩn chương nghiên cứu xây dựng bộ quy tắc về chức danh công việc và tiêu chuẩn nghề nghiệp ngân hàng, từ đó làm cơ sở cho việc hướng đến việc tiêu chuẩn chung. Đồng thời phải có cơ chế để thu hút, giữ chân nhân tài kỹ thuật số, đổi mới cơ chế thi đua, khen thưởng dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc; khen thưởng xứng đáng đối với những lao động có trình độ chuyên môn cao,
song song với cơ chế phạt, thậm chí sa thải đối với những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu công việc, vi phạm quy tắc…
Về công nghệ: Đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, ứng dụng công nghệ trong việc quản lý thông tin, dữ liệu khách hàng để tăng trải nghiệm khách hàng và nâng cao hiệu quả hoạt động, hoàn thiện kết cấu cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin để phát triển dịch vụ ngân hàng thông qua ứng dụng công nghệ số, kết nối đa chiều và thông minh hóa của cách mạng số. Phân tích và quản trị rủi ro, tăng cường quản trị rủi ro an ninh mạng, bảo vệ bí mật khách hàng, chú trọng đến vấn đề an ninh mạng như đầu tư, trang bị các giải pháp về an ninh, bảo mật, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về an ninh phát triển ngân hàng điện tử, kênh thanh toán xanh đăc biệt là ngân hàng cơ sở dữ liệu về rủi ro tín dụng xanh… Xây dựng, triển khai chiến lược chuyển đổi số tại từng tổ chức tín dụng, ứng dụng các mô hình kinh doanh mới, sản phẩm, dịch vụ sáng tạo. Kết nối chia sẻ dữ liệu (open API) giữa các tổ chức tín dụng và giữa các tổ chức tín dụng với các tổ chức khác, xác định mức độ cạnh tranh - hợp tác với Fintech/BigTech để có mô hình kinh doanh thích ứng và xây dựng chuẩn, phát triển hợp tác giữa ngân hàng và các công ty tài chính công nghệ để thúc đẩy hệ sinh thái phát triển, trở thành một phần của hệ sinh thái trong chuỗi cung ứng sản phẩm dịch vụ tài chính, ngân hàng hiện đại. Hướng đến triển khai thành công kiến trúc hướng dịch vụ, tích hợp qua lớp giữa, giúp nâng cao năng lực quản trị của toàn hệ thống và hỗ trợ triển khai nhanh các dịch vụ mới theo yêu cầu thị trường mà ít ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của hệ thống; đẩy mạnh ứng dụng ảo hóa, điện toán đám mây hay Big Data để cung cấp dịch vụ ngân hàng nhanh hơn, sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn, nâng cao khả năng an toàn, bảo mật của hệ thống.
Về vốn: Đa dạng hoá nguồn vốn huy động: từ các định chế tài chính quốc tế (WB, IFC, ADB…), hỗ trợ của Chính phủ/NHNN, các quỹ (như quỹ Bảo vệ môi trường, quỹ Uỷ thác tín dụng xanh), tham gia thị trường trái phiếu xanh, hoặc chủ động đề xuất hợp tác với ngân hàng trong và ngoài nước để thực hiện các dự án lớn giúp san sẻ gánh nặng về vốn, cũng như chia sẻ rủi ro và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.