Một Số Đề Xuất Nhằm Tăng Cường Phát Triển Ngân Hàng Xanh Tại Việt Nam


khách theo từng phân khúc thị trường và lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế. Dịch vụ internet banking, mobile banking phát triển nhanh và đạt tốc độ tăng trưởng khá, gắn liền với quá trình phát triển của các hoạt động TMĐT và các dịch vụ ăn uống, giải trí, du lịch, giao thông vận tải. Đây là điều kiện rất thuận lợi để các ngân hàng thương mại nói chung và trên địa bàn các thành phố lớn nói riêng phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại ứng dụng trên nền tảng công nghệ số, trên môi trường mạng; máy tính và điện thoại thông minh. Theo đó, số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử tăng trưởng nhanh qua từng năm. Trong đó, doanh nghiệp đang sử dụng dịch vụ thanh toán qua internet bình quân tăng khoảng 11,58%/năm, cá nhân tăng 11,04%/năm, khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán qua Mobile bình quân tăng 10,5%/năm (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2020). Tuy nhiên, việc đẩy mạnh không dùng tiền mặt cũng gặp phải một số rào cản, người dân Việt Nam vẫn có thói quen sử dụng tiền mặt, đặc biệt là người nằm ngoài khu vực thành thị và có độ tuổi trung niên trở lên.

Nhận thấy những tác hại về ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu toàn cầu ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bền vững của đất nước, ban lãnh đạo Ngân hàng Bưu điện Liên Việt quyết định triển khai Chương trình Ngân hàng xanh để đưa hoạt động bảo vệ môi trường trở thành một trong các hoạt động xã hội trọng tâm về lâu dài, hướng tới mục đích cải thiện môi trường, chất lượng cuộc sống, bảo vệ tự nhiên thông qua các mục tiêu như giảm thiểu sử dụng các loại khí thải, rác thải gây ô nhiễm. Đồng thời xây dựng hình ảnh Ngân hàng phát triển bền vững, mở rộng các hoạt động Xanh hướng tới công chúng, thông qua việc đầu tư và phát triển các sản phẩm thân thiện với môi trường và các chương trình Marketing như E-banking, Tiết kiệm Xanh, Tín dụng Xanh và Thứ Hai Xanh … Chương trình “Ngân hàng xanh” của Bưu điện Liên Việt được triển khai ở đồng thời hai môi trường nội bộ và bên ngoài. Trong môi trường nội bộ, nội dung của Chiến dịch này là Chương trình “Hành động xanh” gồm 3 hoạt động chính:

Một là, xây dựng Văn phòng Xanh (Green Office): là hình thức phát động thi đua tiết kiệm điện, văn phòng phẩm, sử dụng điện thoại và tiết giảm trong việc sử dụng các tài sản công cộng như nước, giấy vệ sinh… để tạo ra không gian làm việc cũng chính là không gian sống Xanh-Sạch-Đẹp.


Hai là, đổi giấy lấy cây Xanh (Green Paper): là phong trào phát động thu gom và tái sử dụng giấy vào các mục đích hướng tới môi trường.

Ba là, xây dựng Quầy giao dịch Xanh vì nụ cười Khách hàng (Green Smile): Cải thiện hình ảnh thẩm mỹ, ngăn nắp, sạch sẽ, giữ gìn vệ sinh khu vực Quầy giao dịch, xây dựng hình ảnh nhân viên LienVietPostBank thân thiện, chuyên nghiệp

Theo Báo cáo Phát triển bền vững thường niên của Sacombank cũng ghi nhận các nỗ lực, thực hành nội bộ nhằm đóng góp cải thiện môi trường như thực hiện các biện pháp tiết kiệm chi phí hoạt động thông qua sử dụng năng lượng hiệu quả (xăng dầu, điện nước sinh hoạt, di chuyển, thiết bị văn phòng), hạn chế sử dụng giấy in (mô hình văn phòng không giấy E-ofice), chuẩn hóa quy trình và không gian làm việc nhằm giảm tiêu thụ điện năng và phát thải, tăng cường nhận thức môi trường cho cộng đồng khách hàng và đối tác (như khuyến khích sử dụng sao kê điện tử). Sacombank không chỉ triển khai dịch vụ thanh toán hóa đơn điện tử từ khá lâu, mới đây, Sacombank cũng đã trở thành ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam dừng hoàn toàn cấp mã Pin thẻ bằng hình thức in ra giấy để góp phần bảo vệ môi trường; đồng thời, tiết kiệm chi phí, thời gian và hạn chế rủi ro; ứng dụng mCard do Sacombank phát hành có thể xem như là một dạng ví thẻ tạo ra những trải nghiệm mới mẻ về sự tiện ích, hiện đại và an toàn bảo mật trong giao dịch thanh toán, giúp người dùng tiết kiệm thời gian và góp phần giảm thiểu những thủ tục giấy tờ truyền thống.

Ngân hàng phát triển cũng đang tiếp tục "xanh hóa" hoạt động nội bộ, áp dụng tiêu chuẩn 3R: Reduce (giảm thiểu) - Reuse (tái sử dụng) - Recycle (tái chế), nghiên cứu các biện pháp sử dụng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng tại cơ quan (kiểm tra, rà soát các thiết bị sử dụng nguồn năng lượng điện, nước và nguyên liệu giấy)… Đồng thời, từng bước chuyển đổi các quy trình quản trị nội bộ, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và công nghệ thông tin theo hướng hỗ trợ tốt hơn cho việc giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường…

3.1.3 Đánh giá hoạt động Ngân hàng xanh tại Việt Nam

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.

3.1.1.1 Mặt tích cực

Có thể thấy Chính phủ, các Bộ ngành có liên quan đã ban hành nhiều kế hoạch, nghị quyết, nghị định, quyết định nhằm tăng cường bảo vệ và cải thiện chất lượng

Nghiên cứu về ngân hàng xanh Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam - 13


môi trường cũng như khuyến khích và hướng dẫn các hoạt động ngân hàng xanh và tín dụng xanh.

Trên cơ sở những văn bản pháp lý, hướng dẫn của Chính phủ và cơ quan quản lý về đẩy mạnh việc thực hiện tăng trưởng xanh, trong đó có hoạt động Ngân hàng xanh, bước đầu đã thúc đẩy một số ngân hàng thương mại quan tâm nhiều hơn đến hoạt động Ngân hàng xanh như xây dựng định hướng phát triển “Ngân hàng xanh”, xây dựng hệ thống quản lý môi trường và xã hội, triển khai các gói hỗ trợ tín dụng xanh cho các dự án như kinh doanh năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng, xử lý tái chế rác thải môi trường, giảm thiểu các tác động biến đổi khí hậu...

NHNN cũng đã có những bước đi ban đầu hướng tới Ngân hàng xanh thông qua việc ký các thoản thuận hợp tác với Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) xây dựng quy định về quản lý rủi ro môi trường và xã hội áp dụng trong ngành Ngân hàng, xây dựng bộ chỉ tiêu đánh giá rủi ro môi trường, xã hội đối với từng ngành, tiêu chí về các khoản tín dụng đầu tư phải thẩm định rủi ro môi trường…Các NHTM cũng đã và đang phát triển mạnh kênh thanh toán xanh, thực hiện môi trường xanh trong hoạt động ngân hàng. Xã hội dần tiếp nhận các dịch vụ ngân hàng thông qua ngân hàng điện tử, giảm thiểu giao dịch bằng tiền mặt. Hoạt động nội bộ xanh đã được các ngân hàng chú trọng thực hiện với việc ứng dụng khoa học công nghệ nhằm giảm thiểu việc sử dụng giấy, sử dụng các thiết bị tiết kiệm năng lượng như hệ thống chiếu sáng, điều hòa, máy in, xây dựng không gian xanh. Nhìn chung các ngân hàng lớn đã đạt đến cấp độ 3 của ngân hàng xanh trong mô hình của Kaeufer (2010), nhưng còn cần rất nhiều nỗ lực để đạt lên đến cấp tiếp theo.


3.1.2.2 Mặt hạn chế

Khuôn khổ pháp lý về ngân hàng xanh vẫn chưa được hoàn thiện dựa trên các thông tệ tốt quốc tế, vẫn còn mang nhiều tính định hướng, chưa có nhiều các quy định mang tính bắt buộc hoặc chế tài nghiêm khắc. Chính phủ đưa ra được bộ khái niệm, điều kiện cũng như các quy định, tiêu chuẩn về danh mục các ngành/lĩnh vực xanh nhưng vẫn chưa thực sự cụ thể và sát thực tế, trong khi các dự án đầu tư xanh thường phức tạp, luôn tiềm ẩn rủi ro và không dễ dàng triển khai, khiến các NHTM vẫn còn e dè và gặp nhiều khó khăn.

Các quy định, định nghĩa cụ thể về các danh mục, ngành lĩnh vực xanh vẫn chưa được thống nhất để có thể áp dụng chung trên cả nước. Điều này dẫn tới sự khó khăn cho các NHTM trong việc lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh. Đồng thời, lĩnh vực xanh hiện vẫn thiếu các tiêu chí đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường để hỗ trợ xây dựng chính sách, sản phẩm phát triển tín dụng xanh.

Các chính sách hỗ trợ chưa giải quyết hiệu quả được vấn đề nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện phát triển ngân hàng xanh, đặc biệt là tín dụng xanh. Nguồn lực tài chính hiện nay cho tín dụng xanh của các ngân hàng đa phần vẫn đang phải dựa vào các chương trình, dự án có nguồn tài trợ quốc tế. Việc huy động nguồn vốn xanh qua thị trường tài chính còn hạn chế. Để tạo nguồn vốn cho các dự án xanh, ngân hàng cần phải bổ sung thêm vốn trung dài hạn. Trong khi đó, thị trường trái phiếu xanh chưa phát triển, các định chế tài chính như quỹ hưu trí, quỹ tín thác… hoạt động còn hạn chế. Do đó, nếu không đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính tạo kênh huy động vốn trung và dài hạn phát triển trong nước thì các dự án xanh sẽ phải tìm kiếm nguồn vốn trung dài hạn ở bên ngoài với chi phí cao hơn. Các phương án kinh doanh cũng cần phải đáp ứng được các điều kiện khắt khe về bảo vệ môi trường, các thủ tục vay vốn phức tạp, khách hàng sẽ ít có nhu cầu sử dụng sản phẩm tín dụng xanh của ngân hàng nếu không có hỗ trợ lãi suất hay những cơ chế ưu đãi khác. Có thể nói, các dự án xanh được xem là lĩnh vực được ưu tiên cho vay vốn, tuy nhiên, trên thực tế lãi suất cho vay đối với các dự án xanh về cơ bản vẫn chưa có sự khác biệt với các khoản vay khác của ngân hàng.


Tuy đã có nhiều ngân hàng đã và đang quan tâm, chú trọng xây dựng và tích hợp các quy trình, tiêu chuẩn đánh giá rủi ro môi trường – xã hội vào việc đánh giá và thẩm định các dự án đầu tư tuy nhiên năng lực của các ngân hàng trong việc thực hiện còn hạn chế, vướng mắc quy trình lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát hoạt động tín dụng xanh. Đồng thời, các ngân hàng Việt Nam chưa có kinh nghiệm về các công nghệ mới, gặp khó khăn về các khoản tín dụng cho năng lượng mới, thường đánh giá rủi ro các dự án này còn cao, do đó giảm việc hỗ trợ vốn một cách hiệu quả so với các dự án thông thường. Đặc biệt, tình trạng chung của các ngân hàng Việt Nam hiện nay là quá tập trung vào các tài sản thế chấp thay vì quan tâm đến dòng tiền đầu tư vào dự án. Các ngân hàng ưa thích các dự án ngắn hạn thông thường hơn, trong khi các chương trình tiết kiệm năng lượng dài hạn hơn lại không được chấp thuận như một khoản đầu tư, lựa chọn hoàn trả hay tài sản thế chấp. Bên cạnh đó, khuôn khổ chính sách chung của Việt Nam chưa cụ thể hóa, phần nào khiến các nhà đầu tư thiếu động lực đầu tư vào công nghệ xanh. Việc lãi suất cho vay không được ưu đãi nhiều cũng bổ sung thêm các yếu tố giảm động lực cho doanh nghiệp đầu tư công nghệ xanh. Các sản phẩm ngân hàng xanh cũng chưa đa dạng và chưa mang được dâú ấn riêng để thu hút khách hàng.

3.2 Một số đề xuất nhằm tăng cường phát triển Ngân hàng xanh tại Việt Nam

Trên cơ sở bài học kinh nghiệm quốc tế, và thực trạng phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam, để thúc đẩy phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam, tác giả xin trình bày một số đề xuấtnhằm phát triển Ngân hàng xanh ở Việt Nam như sau:

3.2.1 Đối với cơ quan Nhà nước

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho việc phát triển ngân hàng xanh.

Từ bài học kinh nghiệm của các nước, chúng ta đã thấy được vai trò của Chính phủ, chính quyền và NHTW trong công cuộc xanh hoá ngân hàng. Các quy định pháp luật cần nêu rõ các cơ sở lý luận về ngân hàng xanh từ định nghĩa, đặc điểm, các tiêu chí đánh giá,…đồng thời không nêu những nguyên tắc quá chung chung mà cần cụ thể, chi tiết, đi từ khuyến khích thực hiện sang bắt buộc thực hiện. Các quy định của chính phủ cần phải đề cập trực tiếp đến trách nhiệm của ngân hàng trong việc phát


triển ngân hàng xanh, không chỉ dừng lại ở trách nhiệm của đơn vị trực tiếp gây ô nhiễm mà chính ngân hàng cũng cần phải cân nhắc tới những rủi ro về môi trường và xã hội đối với những khoản vay tín dụng của mình, làm sao để cho vay nhưng vẫn đảm bảo được các điều kiện ràng buộc về tiêu chí “xanh”. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy để tránh sự phản kháng, sẽ là là khôn ngoan khi bắt đầu với các hướng dẫn tự nguyện và khuyến khích, tuy nhiên sau một giai đoạn chuyển tiếp nhất định cần đưa ra các quy định hoặc chính sách bắt buộc. Bản thân các quy định phải được xác định một cách rất chính xác và rõ ràng để tránh bất kỳ khả năng gian lận nào.

Nhà nước nên khẩn trương thành lập các bộ phận đặc biệt (như Lực lượng Đặc nhiệm Tài chính Xanh ở Trung Quốc) để nghiên cứu, thu thập ý kiến của các ngân hàng thương mại. Để đưa ra các quy định sát sao, các ngân hàng và các tổ chức tài chính nên được mời tập trung thảo luận nhóm cùng các Bộ ban ngành để giải quyết nhu cầu và lợi ích của quy định ngân hàng xanh và tài chính bền vững càng sớm càng tốt để mở đường cho việc đưa ra các quy định một cách suôn sẻ và giải quyết các mối quan tâm và phản đối trước khi chúng biểu hiện sau khi quy định được ban hành.

Quy định nên được hiểu là một khuôn khổ năng động, sống động vì hai lý do. Đầu tiên, cần theo dõi hiệu quả của các biện pháp quản lý để điều chỉnh chúng nếu cần thiết nhằm đạt được hiệu quả mong muốn và tránh các tác dụng phụ bất lợi. Thứ hai, để hỗ trợ quá trình chuyển đổi hướng tới một tương lai bền vững, các phát triển và công nghệ mới phải được liên tục kết hợp trong các hướng dẫn; nếu không các cơ quan tài chính sẽ có nguy cơ không sử dụng hết tiềm năng biến đổi của họ. Việc thực hiện quy chế thị trường tài chính xanh và bền vững phải đi kèm với việc nâng cao năng lực kịp thời của các ngân hàng và tổ chức tài chính.

Đồng thời, cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các Luật liên quan khác, làm sao để thống nhất, đồng bộ chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau, tránh chồng chéo, điều này được tháo gỡ nhưng lại vướng mắc ở điều kia. Chính phủ cũng nên tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu các quy trình, đề ra các quy định để đảm bảo môi trường đầu tư minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận lợi cho các dự án xanh phát triển. Việc này cũng cần sự đồng thuận và nỗ lực triển khai từ các chính quyền địa phương để đẩy mạnh các dự án xanh trên toàn quốc. Để tránh bất kỳ xung đột quyền lực nào


giữa các bên, các cơ quan chính phủ có liên quan cần được vào cuộc càng sớm càng tốt. Vai trò của các cơ quan Nhà nước trong việc thúc đẩy chính sách, pháp luật về tín dụng xanh song hành với vai trò của nó trong việc duy trì sự nghiêm túc và liêm chính khi thực hiện các dự án và chiến lược tín dụng xanh. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường phải nghiên cứu ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể và các bộ tiêu chuẩn cụ thể, rõ ràng, hạn chế tối đa giấy phép con trong việc cấp phép các dự án sử dụng tài nguyên thiên nhiên như đất, nước,... và các dự án khác liên quan đến môi trường. Các cơ quan môi trường phải tạo điều kiện và hỗ trợ các dự án xanh được thẩm định, phê duyệt nhanh chóng và phối hợp với các ngân hàng trong việc thẩm định tín dụng xanh. Tuyệt đối không có chủ trương vận động hành lang hoặc nhận hối lộ để thực hiện các dự án không đảm bảo tiêu chuẩn, thiếu an toàn môi trường và đẩy khó khăn cho ngân hàng trong khi ngân hàng không có cán bộ chuyên trách về lĩnh vực chuyên môn để đánh giá chính xác các vấn đề tác động môi trường. Mở rộng Danh mục dự án xanh và ưu tiên hỗ trợ cho các dự án xanh thông qua sự phối hợp chặt chẽ với các Quỹ tín dụng, Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV, Quỹ bảo vệ môi trường, …

NHNN cũng cần tăng cường vai trò định hướng và hỗ trợ của mình đối với hoạt động ngân hàng xanh. Trong tương lai, Việt Nam cũng có thể xem xét thành lập định chế ngân hàng xanh chuyên biệt như Anh, Úc… nhằm chuyên môn hóa việc cung cấp vốn liên quan đến tăng trưởng xanh. Khi chưa có ngân hàng xanh chuyên biệt, các cơ chế pháp lý, quy định chung cho các ngân hàng hay các chính sách ưu đãi sẽ góp phần tạo động lực cũng như ràng buộc hệ thống ngân hàng đối với phát triển bền vững.

NHNN cần ban hành hướng dẫn để định hướng để định hướng phát triển ngân hàng xanh, và đặc biệt là hoạt động tín dụng xanh, bao gồm: hệ thống các quy định nội bộ về quản lý rủi ro môi trường xã hội; mô hình triển khai các hoạt động quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong quy trình cấp tín dụng; tỷ trọng vốn tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh cần ưu tiên hỗ trợ trong danh mục dự án xanh. Có thể học hỏi các mô hình chính sách về ngân hàng xanh của các nước ở nhiều góc độ vĩ mô, vi mô, thị trường chứng khoán, phân bổ tín dụng. Về vĩ mô, có thể học hỏi từ


Anh, Mỹ, Úc, trong việc vận dụng các công cụ kiểm tra áp lực để đánh giá tác động của rủi ro khí hậu đối với hệ thống tài chính; các công cụ giới hạn và hạn chế để chỉ định trọng số rủi ro cao hơn cho các tài sản sử dụng nhiều carbon khi đánh giá tỷ lệ vốn trên tài sản rủi ro của ngân hàng, hạn chế dòng chảy của các nguồn lực đến các lĩnh vực hoặc công ty vượt quá các mục tiêu phát thải carbon quy định, hạn chế mức tín dụng của các ngân hàng đối với những người đi vay sử dụng nhiều carbon; đưa ra cơ chế khuyến khích đối với các yêu cầu về Tỷ lệ tài trợ ổn định ròng để liên kết các mục tiêu khí hậu và các yêu cầu không phù hợp về thanh khoản/ kỳ hạn. Về vi mô, có thể dùng các công cụ yêu cầu tiết lộ yêu cầu ngân hàng công bố thông tin về rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu, yêu cầu dự trữ giúp giảm yêu cầu dự trữ cho danh mục đầu tư xanh của ngân hàng để khuyến khích đầu tư xanh, ứng dụng quản lý rủi ro E&S để yêu cầu các ngân hàng xây dựng khuôn khổ và tiêu chuẩn quản lý rủi ro E&S và thực hiện. Về phân bổ tín dụng, có thể học hỏi Trung Quốc để áp dụng các hạn ngạch cho vay, các khoản vay ưu đãi cho các lĩnh vực ưu tiên hay các hỗ trợ tái cấp vốn xanh để yêu cầu tỷ lệ cho vay tối thiểu của ngân hàng đối với các lĩnh vực liên quan đến khí hậu và môi trường, khuyến khích các sáng kiến tài chính xanh hay ung cấp các khoản vay ưu đãi cho các ngân hàng cho vay các lĩnh vực nhạy cảm với khí hậu.

Bên cạnh đó, các chính sách, công cụ ưu đãi, cơ chế hỗ trợ khuyến khích phát triển ngân hàng xanh cần phải được nghiên cứu và đẩy mạnh, tạo động lực cho ngân hàng như xem xét ưu tiên nguồn vốn từ việc tái cấp vốn hoặc tái chiết khấu, ưu tiên tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi từ các tổ chức quốc tế thông qua NHNN, giảm dự trữ bắt buộc, tăng tổng dư nợ cho các ngân hàng thương mại có thành tích nổi bật trong hoạt động ngân hàng xanh, và ngược lại tăng yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc và thanh khoản đối với các ngân hàng bỏ qua rủi ro môi trường khi thực hiện cho vay…Song hành với việc tạo động lực cho ngân hàng, thì cũng cần có các cơ chế để thu hút nhu cầu với tín dụng xanh từ nội tại các doanh nghiệp như ưu đãi về thuế, phí, lãi suất, thủ tục vay vốn, tài sản đảm bảo, bảo lãnh chuyên ngành.

NHNN cũng cần đứng ra tổ chức phối hợp ngành ngân hàng với các bộ ngành liên quan xây dựng và hoàn thiện một hệ thống phân loại, đánh giá các ngành nghề

Xem tất cả 142 trang.

Ngày đăng: 08/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí