cho việc triển khai chiếm lĩnh Thị trường bán lẻ, nhằm đưa Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam - Maritime Bank đứng vững chắc trong Top 5 của Ngân hàng Thương mại Cổ phần hàng đầu ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động của Ngân hàng TMCP Hàng Hải và các nhân tố tạo nên năng lực cạnh tranh.
- Phạm vi nghiên cứu: Số liệu thu thập và phân tích của Ngân hàng TMCP Hàng Hải trong giai đoạn từ 2009 – 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm: Phương pháp phân tích thống kê, tổng hợp, điều tra thực tế, phân tích định tính và định lượng kết hợp với phương pháp so sánh và phân tích SWOT để lựa chọn mục tiêu phát triển và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Maritime Bank.
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động và năng lực cạnh tranh của NHTM trên thị trường bán lẻ.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hàng Hải trên Thị trường bán lẻ - 1
- Các Tiêu Chí Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Nhtm Trên Thị Trường
- Mức Độ Đa Dạng Hóa Sản Phẩm, Dịch Vụ Và Phát Triển Mạng Lưới
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Năng Lực Cạnh Tranh Của Các Nhtm Trên Thị Trường Ngân Hàng Bán Lẻ.
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam ( Maritime Bank) trên thị trường bán lẻ.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Maritime Bank trên thị trường bán lẻ.
Trong quá trình thực hiện đề tài, được hướng dẫn tận tình của TS. Đào Thanh Bình, cùng với sự cố gắng của bản thân, nhưng với kiến thức và trải nghiệm thực tế còn hạn chế, thông tin, tài liệu tham khảo còn giới hạn, nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, cũng như mức độ bao quát và chiều sâu chưa được nghiên cứu đề cập đến. Do vậy tác giả rất mong được sự hướng dẫn, chỉ bảo của thầy cô, các đóng góp của đồng nghiệp và những người có quan tâm, để đề tài được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ
1.1 Tổng quan về NHTM và năng lực cạnh tranh của NHTM
1.1.1 NHTM và các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng từ lâu đã trở thành một khái niệm quen thuộc với đại bộ phận dân cư bởi sự tham gia sâu rộng của ngân hàng vào nền kinh tế quốc gia.Ngân hàng với lịch sử hình thành và phát triển lâu đời là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Theo quan điểm của giáo sư Peter S. Rose thuộc Đại học Texas A&M (Hoa Kỳ):“Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”1.
Ngân hàng thương mại là một bộ phận không thể tách rời khỏi đời sống xã hội, là một sản phẩm đặc biệt của nền kinh tế thị trường.Sự ra đời của NHTM đã đánh dấu một bước nhảy vọt trong quá trình phát triển đi lên của nhân loại.
Tại Điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam cũng nêu rõ: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm NHTM, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng Hợp tác xã và các loại hình ngân hàng khác”2.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với nhiều hoạt động đa dạng, có thể tổng hợp những hoạt động đó theo 3 nhóm hoạt động cơ bản, đó là: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính.
1 Quản trị Ngân hàng thương mại, Peter S. Rose tr. 7
2 Luật các Tổ chức tín dụng, NXB Tư pháp tr. 24
1.1.1.1 Hoạt động huy động vốn.
Nguồn vốn tiền gửi không kì hạn: đây là nguồn vốn hình thành dựa trên nhu cầu giao dịch, khi khách hàng muốn sử dụng các dịch vụ tài chính của ngân hàng.
Nguồn vốn này có quy mô rất lớn, luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong số nguồn vốn, sự vận động lại phức tạp nên việc sử dụng rất mạo hiểm, cần phải thận trọng mới có phương pháp sử dụng hiệu quả.
Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định sẽ được gửi vào ngân hàng sau một thời gian nhất định để hưởng lãi suất tương ứng với kì hạn đó (luôn cao hơn đối với lãi suất tiền gửi thanh toán).
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời và an toàn.
Nguồn vốn chủ sở hữu: để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định và còn được bổ sung trong quá trình hoạt động. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng.
Các nguồn vốn khác: đây thường là các nguồn không phải trả lãi, tuy nhiên chi
phi để có và duy trì chúng là rất đáng kể, ví dụ như nguồn uỷ thác...
1.1.1.2 Hoạt động sử dụng vốn.
• Các hoạt động về ngân quỹ:
Dự trữ bắt buộc: đây là khoản dự trữ mà ngân hàng Nhà nước yêu cầu các NHTM nộp vào tài khoản tại ngân hàng Nhà nước nhằm mục đích: hỗ trợ, bảo đảm an toàn cho hoạt động của NHTM, vận hành chính sách tiền tệ quốc gia, quản lý hoạt động NHTM.
Dự trữ vượt quá: là các khoản dự trữ tồn tại dưới dạng tiền mặt tại quỹ, các
khoản tiền gửi tại ngân hàng khác, tiền mặt trong quá trình thu.
Nhìn chung, ngân quỹ của NHTM là tài sản không sinh lời (hoặc sinh lời thấp trong trường hợp tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng khác được hưởng lãi) song lại là tài khoản có tính thanh khoản cao nhất, đáp ứng nhu cầu chi
trả thường xuyên. Do vậy, mỗi ngân hàng đều cố gắng giữ ngân quỹ ở mức thấp
nhất có thể được.
• Cho vay:
Cho vay là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn cho người khác trong một thời gian, sau đó được quyền thu cả gốc lẫn lãi. Cho vay là khoản mục có tỷ lệ cao nhất trong các loại tài sản của ngân hàng.Có rất nhiều loại hình cho vay khác nhau đáp ứng nhu cầu của dân cư hay các doanh nghiệp.
• Các hoạt động đầu tư:
Ngân hàng nhường quyền sở hữu cho người khác dưới hình thức hùn vốn, thu nhập căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ vốn góp. Có nhiều hình thức đầu tư: đầu tư vào chứng khoán, đầu tư vào các dự án, đầu tư dưới dạng liên doanh với nhau để hình thành các ngân hàng liên doanh.
• Các hoạt động sử dụng vốn khác: quảng cáo, quảng bá, tài trợ cho sự
phát triển nguồn nhân lực, các chương trình phát triển.
1.1.1.3 Cung cấp dịch vụ tài chính trung gian .
- Chuyển tiền: Ngân hàng làm theo lệnh của khách hàng chuyển trả tiền cho
một người nào đó.
- Thanh toán không dùng tiền mặt: Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các hình thức thanh toán ngày càng đa dạng: thanh toán bù trừ, sec, L/C, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, hối phiếu, thanh toán bằng thẻ...
- Cung cấp các dịch vụ tài chính:
+) Dịch vụ ủy thác và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý tài chính hộ.Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính.
+) Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác.Trong một vài trường hợp,
các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.
+) Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho 1 khách hàng là rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác...
1.1.2 Năng lực cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.1.2.1 Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Theo P. Samuelson thì cạnh tranh là sự đối đầu giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị phần. Một ngành có năng lực cạnh tranh nếu có năng lực duy trì được lợi nhuận và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước. Và năng lực cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra những sản phẩm và chất lượng dịch vụ đáp ứng được thị hiếu của khách hàng trong môi trường cạnh tranh nhằm duy trì và phát triển những lợi thế và mở rộng thị phần, đạt được lợi nhuận cao nhất. Khả năng cạnh tranh của các ngân hàng sẽ được nâng cao bởi cơ hội liên kết, hợp tác với các đối tác trong chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và khai thác thị trường.
Theo Micheal Porter thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gồm 4 yếu tố:
(1) Các yếu tố bản thân doanh nghiệp, (2) Nhu cầu của khách hàng (3) Các lĩnh vực liên quan và phụ trợ và (4) là chiến lược của doanh nghiệp, cấu trúc ngành và đối thủ cạnh tranh.
Môi trường hoạt động kinh doanh của các NHTM có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do xuất phát từ những đặc thù của hoạt động kinh doanh ngân hàng và những ảnh hưởng của hoạt động ngân hàng đối với nền kinh tế, cạnh tranh của NHTM có những đặc trưng riêng. Đó là:
Các NHTM vừa cạnh tranh gay gắt vừa hợp tác với nhau: Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, trong hoạt động của mình, các ngân hàng luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau để mở rộng thị trường và thu hút khách hàng nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Tính chất gay gắt trong cạnh tranh ngân
hàng xuất phát từ đặc thù của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng là có tính tương đồng cao và rất dễ bị bắt chước. Mặt khác, trong cạnh tranh, các ngân hàng không chỉ sử dụng các công cụ mang tính truyền thống như phí, lãi suất, các dịch vụ ngân hàng,... mà còn sử dụng công nghệ hiện đại để đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, đưa ra các kênh phân phối mới và nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ, tinh thần, thái độ phục vụ khách hàng...
Bên cạnh đó, do điều kiện về vốn, mạng lưới, công nghệ có hạn trong khi nhu cầu, đòi hỏi về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng ngày càng cao do đó các ngân hàng cũng phải liên kết với nhau để cùng cung cấp một hay một số sản phẩm, dịch vụ nhất định cho khách hàng. Vì vậy, để tránh đổ vì toàn hệ thống cũng như tiết kiệm chi phí, đảm bảo an toàn trong kinh doanh, các NHTM một mặt cạnh tranh với nhau, một mặt, lại hợp tác chặt chẽ với nhau trong cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng.
Cạnh tranh ngân hàng luôn phải hướng tới một thị trường lành mạnh, tránh khả năng xảy ra rủi ro hệ thống: Các NHTM phải cạnh tranh lành mạnh thông qua cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, đi vay để cho vay lại nếu các ngân hàng cạnh tranh không lành mạnh, hoặc cạnh tranh thông qua việc tăng lãi suất huy động tiền gửi, giảm lãi suất cho vay, phí dịch vụ, nới láng các điều kiện tín dụng... sẽ làm cho nguồn thu của các ngân hàng giảm sút, nguy cơ tiềm ẩn rủi ro tín dụng tăng cao dẫn đến rủi ro hệ thống. Vì vậy, mặc dù cạnh tranh với nhau trong hoạt động, các NHTM vẫn liên kết với nhau, có thể thoả thuận để giữ mặt bằng giá cả phù hợp, đảm bảo lợi ích chung.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng có tính lây lan rất lớn. Nếu một ngân hàng có nguy cơ phá sản, khách hàng đồng loạt đến rút tiền, gây tâm lý hoang mang cho khách hàng gửi tiền tại các NHTM khác. Điều này dễ dẫn đến khả năng đổ vì mang tính hệ thống mà tất cả các NHTM đều bị ảnh hưởng và tác động đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Cạnh tranh ngân hàng luôn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài như môi trường kinh doanh, doanh nghiệp, dân cư… Cũng như bất kỳ doanh nghiệp nào,
ngân hàng hoạt động và cạnh tranh với nhau trong những môi trường và điều kiện kinh tế nhất định. Hoạt động kinh doanh ngân hàng chịu sự chi phối của luật pháp, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu của những đối tượng khách hàng cụ thể:
Khách hàng của ngân hàng là các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần của nền kinh tế. Do vậy, hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng như sự cạnh tranh giữa các ngân hàng luôn chịu sự tác động của môi trường bên ngoài ngân hàng. Với mỗi môi trường kinh doanh nhất định, điều kiện kinh tế nhất định, khu vực địa lý nhất định, ngân hàng cần có những chính sách phù hợp để đưa ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thu hút khách hàng, giành ưu thế trong cạnh tranh.
1.1.2.2 Năng lực cạnh tranh của NHTM.
NHTM cũng là một doanh nghiệp và là doanh nghiệp đặc biệt vì kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là cạnh tranh trong nội bộ nghành. Từ những quan điểm trên, áp dụng đối với các NHTM thì các nhà nghiên cứu cho rằng năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần, đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sự hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh. Năng lực cạnh tranh giữa các NHTM thể hiện ở những khía cạnh như sau:
Gia tăng các sản phẩm dịch vụ mới tiện ích: Các sản phẩm dịch vụ, nhất là dịch vụ ngân hàng bán lẻ, ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một quyết liệt hơn đóng vai trò tích cực hơn trong nền kinh tế.
Thị phần: Cạnh tranh mạnh mẽ và sôi động nhất là phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ hiện đại trong dân cư và cung cấp cho các doanh nghiệp. Các NHTM đầu tư cho hiện đại hoá công nghệ, đẩy mạnh tiếp thị, khuyến mại,..nhằm tăng thị phần của mình trên thị trường
Cải tiến hiện đại hóa công nghệ ngân hàng: Thị trường công nghệ ngân hàng đang hứa hẹn rộng mở và phát triển mạnh trong thời gian tới khi các ngân hàng trong nước đẩy mạnh phát triển các dịch vụ trên nền tảng đổi mới công nghệ, nhằm
tăng cường cạnh tranh, chuẩn bị cho hội nhập. Các NHTM đã không ngần ngại bỏ ra hàng triệu đôla mua phần mềm của nước ngoài với các công nghệ mới để tăng sức cạnh tranh. Với thế mạnh vượt trội của các loại công nghệ sẽ tăng khả năng cung cấp các dịch vụ tiện ích cho người dân.
Nâng cao năng lực tài chính: Năng lực tài chính của NHTM được thể hiện rõ và quan trọng nhất ở quy mô vốn chủ sở hữu hay còn được gọi là vốn tự có. Vốn tự có là yếu tố quyết định sức mạnh tài chính của một NHTM, là “tấm nệm chống đỡ rủi ro“. Các NHTM đang chạy đua và tìm mọi cách để tăng vốn tự có nhằm phát triển các nguồn vốn huy động khác và bảo vệ các NHTM trước những rủi ro, các chủ nợ (người gửi tiền).
1.2 Đặc trưng của thị trường Ngân hàng bán lẻ.
1.2.1 Khái niệm dịch vụ Ngân hàng bán lẻ.
Trong nền kinh tế mở, nhu cầu về dịch vụ ngân hàng ngày càng cao, nhất là dịch vụ ngân hàng bán lẻ (NHBL). Mục tiêu của dịch vụ NHBL là khách hàng cá nhân, nên các dịch vụ thường đơn giản, dễ thực hiện và thường xuyên, tập trung vào dịch vụ tiền gửi và tài khoản, vay vốn, mở thẻ tín dụng...
Theo các chuyên gia kinh tế của Học viện Công nghệ Châu á – AIT, dịch vụ NHBL là cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tới từng cá nhân riêng lẻ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua mạng lưới chi nhánh, khách hàng có thể tiếp cận trực tiếp với sản phẩm và dịch vụ ngân hàng thông qua các phương tiện điện tử viễn thông và công nghệ thông tin.
Từ giác độ kinh tế – xã hội, dịch vụ NHBL có tác dụng đẩy nhanh quá trình luân chuyển tiền tệ, tận dụng tiềm năng to lớn về vốn để phát triển kinh tế, đồng thời giúp cải thiện đời sống dân cư, hạn chế thanh toán tiền mặt, góp phần tiết kiệm chi phí và thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng.
Xét trên giác độ tài chính và quản trị ngân hàng, NHBL mang lại nguồn thu ổn định, chắc chắn, hạn chế rủi ro tạo bởi các nhân tố bên ngoài vì đây là lĩnh vực ít chịu ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế. Ngoài ra, NHBL giữ vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo nguồn vốn trung và dài hạn chủ đạo cho ngân hàng, góp phần đa dạng hóa hoạt động ngân hàng.