Tiềm Năng Phát Triển Du Lịch Của Kbttn Đất Ngập Nước Vân Long


+ Trồng trọt: Những sản phẩm chủ yếu là lúa, sắn và cây nông nghiệp ngắn ngày như lạc, mía chiếm rất ít. Nhìn chung sản phẩm tính theo đầu người không cao dẫn đến tình trạng thiếu lương thực. Chính vì vậy đây cũng là nguyên nhân và sức ép tới khu bảo tồn.

+ Chăn nuôi: Nhân dân trong KBT chủ yếu tập trung chăn nuôi Trâu, Bò, Lợn, Gà, Dê. Tuy nhiên số lượng ít, manh mún và không thông qua khâu tuyển chọn giống vì vậy năng suất chưa cao. Đặc biệt, việc chăn thả gia súc ở đây là không có quy hoạch và chiến lược phát triển nên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên.

- Công nghiệp và xây dựng: Trên địa bàn có một khu công nghiệp tại xã Gia Tân và một số nhà máy, doanh nghiệp nằm trên địa bàn các xã còn lại đã phần nào giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận người dân địa phương, giảm áp lực vào tài nguyên thiên nhiên.

- Thương mại - dịch vụ: Các hoạt động kinh doanh buôn bán và dịch vụ trên địa bàn chưa thực sự sôi nổi. Các tổ chức, doanh nghiệp đang trong giai đoạn đầu tư và bước đầu khai thác các tiềm năng từ hoạt động du lịch.Như vậy có thể thấy, tình hình phát triển kinh tế trong khu vực vẫn còn thấp, du lịch mới bước đầu phát triển. Chỉ tập trung tại một số nơi, chưa phát triển rộng rãi. Các dịch vụ buôn bán chưa được đầu tư mạnh.


Chương 4‌‌

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN


4.1. Tiềm năng phát triển du lịch của KBTTN đất ngập nước Vân Long

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

4.1.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên

Vân Long có cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, được thành lập ngay trên vùng đất có lịch sử lâu đời - vùng đất mà hai triều đại Đinh, tiền Lê chọn làm kinh đô. Các di tích văn hoá, lịch sử và tôn giáo có ở khắp nơi, cùng với đó là sự phong phú về đa dạng sinh học và cảnh quan sinh thái.... Chính vì vậy, Vân Long là một điểm đến tham quan du lịch của đông đảo du khách trong và ngoài nước.

Nghiên cứu tiềm năng, thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển du lịch bền vững tại Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long, tỉnh Ninh Bình - 5

a. Các giá trị về đa dạng sinh học[14, 18]

* Đa dạng hệ sinh thái: Vân Long là một trong những vùng ĐNN tự nhiên còn sót lại có diện tích lớn nhất của vùng đồng bằng Bắc bộ. Ở đây có hệ động, thực vật rất phong phú, đặc biệt là nơi cư trú của loài Voọc quần đùi trắng - một trong những loài linh trưởng đặc hữu quý hiếm của Việt Nam, với 3 hệ sinh thái chính:

- Hệ sinh thái trên cạn được hình thành trên nền Karst bao gồm:+ Rừng thứ sinh trên núi đá vôi; + Núi đá vôi không có cây; + Trảng cỏ và cây bụi trên núi đá vôi; + Rừng trồng (Keo, Bạch đàn, Sưa bắc bộ); + Đất nương rẫy trồng cây màu, cây ăn quả; + Hang động trên cạn.

- Hệ sinh thái dưới nước được hình thành ở vùng trũng mang đặc trưng của vùng đầm lầy nước ngọt đồng bằng sông Hồng bao gồm:+ Đầm nước; + Ruộng lúa nước; + Sông, suối; + Hang động ngầm.

- Hệ sinh thái dân cư

Mỗi hệ sinh thái đều có đặc trưng riêng và có giá trị khai thác du lịch, song đứng về khía cạnh bảo tồn có hai hệ sinh thái đặc biệt có giá trị là: rừng thứ sinh trên núi đá vôi và đầm nước.Hệ sinh thái rừng thứ sinh trên núi đá vôi là nơi sinh sống của loài Voọc quần đùi trắng, còn hệ sinh thái đầm nước là nơi bảo tồn khu hệ thực vật thủy sinh đặc trưng của vùng Đồng bằng sông Hồng và là nơi di trú của nhiều quần thể chim di cư từ phương Bắc.


* Đa dạng loài: Theo số liệu điều tra của Ban quản lý KBT, sự đa dạng về thành phần loài thực vật và động vật ở đây khá phong phú[14, 18].

- Các loài cây sống trên núi đá vôi

+ Do bị khai thác quá mức, nhiều loài cây gỗ lớn không còn nhiều. Nghiên cứu điều tra gần đây cho biết số lượng loài của khu hệ thực vật sống trên cạn có 687 loài, thuộc 451 chi, 144 họ. Ngành rêu có vài loài. Quyết thực vật có đại diện là cây dớn (cây guột). Thực vật hạt trần là cây tuế, cây gấm. Thực vật hạt kín một lá mầm và hai lá mầm có rất nhiều loài. Thuộc nhóm cây gỗ vẫn còn gặp nhiều như: cây nhội, lộc vừng, sung, ghè, chân chim, thàn mát, thị, đa, nghiến, lim xẹt, lát hoa,…Đây cũng là nơi phân bố của loài cây sưa (gỗ huê - một loại gỗ quý). Các cây bụi phổ biến có: ô rô, duối, cò ke, bùng bục… các loài cỏ có: cỏ lào, cỏ tranh, cỏ lam.

+ Trong Khu Bảo tồn, rừng trồng ở những nơi đất trống có bạch đàn, keo tai tượng, tre. việc trồng cây sưa đã và đang được thử nghiệm nhân rộng.

+ Trong số các cây sống trên núi đá vôi còn phải kể nhóm các loài cây thuốc mà nhân dân trong vùng trước đây vẫn vào đây thu hái để chữa bệnh. Theo thống kê cho biết có tới 266 loài cây dùng làm thuốc, gồm cả các loài cây gỗ, cây bụi và thân thảo.

+ Một nhóm cây khác nữa có giá trị bảo tồn là cây cảnh. Đã kiểm kê được trên 20 loài cây cảnh có giá trị phân bố ở đây. Đó là các loài Lan, Si, Sanh, Dương xỉ, Thông đất, Tuế, Huyết giác…

- Các loài thực vật thủy sinh sống ở đầm: Với gần 1.000ha diện tích đầm nước đang ở trạng thái tự nhiên hoang dã, đã phát hiện 35 loài thực vật thủy sinh, gồm các loài thuộc Quyết thực vật, lớp một lá mầm, lớp hai lá mầm. Các cây thủy sinh phát triển mạnh vào mùa hè, mùa đông trời lạnh và nước cạn phát triển chậm. Thực vật thủy sinh trong đầm là thành phần rất quan trọng của bất cứ một khu đất ngập nước nào ở Đồng bằng sông Hồng.

- Các loại vi tảo ở đầm: Các loài này khá phong phú. Đã thống kê được 258 taxon thuộc 5 ngành: tảo mắt, tảo lục, tảo Silic, tảo vàng ánh và tảo hai rãnh. Ngành tảo lục chiếm ưu thế về số loài. Vi tảo ở đầm cùng với thực vật thủy sinh đóng vai


trò quan trọng trong chu trình vật chất trong đầm là sự quang hợp lấy CO2 cùng với năng lượng mặt trời để hình thành nên chất hữu cơ - cơ sở thức ăn cho tất cả các động vật và thải O2 vào khí quyển.

- Các loài động vật sống trên cạn[18]:

+ Các loài côn trùng: Sơ bộ khảo sát thành phần loài có 132 loài thuộc 5 bộ: bộ Cánh nửa (Hemiptera), bộ Cánh cứng (Coleoptera), bộ Cánh thẳng (Orthoptera), bộ Chuồn chuồn (Odonata), bộ Cánh vẩy (Lepidoptera).

+ Các loài ếch nhái – bò sát: Sống ở Khu bảo tồn có tất cả 38 loài thuộc 16 họ, 3 bộ, 2 lớp. Số lượng loài rắn khá nhiều 14 loài, số lượng loài ếch nhái là 7 loài, rùa có 4 loài,…

+ Các loài chim: Đã phát hiện cókhoảng 100 loài, thuộc 39 họ và 13 bộ. Đặc trưng của khu hệ chim trong đầm đó là nhóm chim nước; nhóm chim trên cạn gồm các loài sống ở miền núi giáp đồng bằng. Nhiều loài chim cỡ lớn như các loại họ Ưng, họ Trĩ, họ Gà nước, họ Gà lôi nước, họ Bồ câu số lượng không còn nhiều, trong đó có nhiều loài chim quý hiếm như Sâm cầm, le le…

+ Các loài thú: Kết quả điều tra cho biết các loài thú có 39 loài, thuộc 19 họ và 8 bộ ở Khu bảo tồn. Tuy nhiên thực tế không dễ gặp ở tự nhiên nhất là cá loài thú lớn như Gấu ngựa, Sơn dương, Lợn rừng, Báo gấm… do bị săn bắn quá mức nay vẫn chưa phục hồi, trừ loài Voọc quần đùi trắng được đặc biệt quan tâm bảo vệ nên số lượng cá thể ngày càng phát triển.

- Các loài động vật thủy sinh: Sống ở đầm nước là cả một giới động vật nguyên sinh đa dạng và phong phú. Kết quả nghiên cứu cho thấy thành phần loài động vật không xương sống ở KBT có 108 loài thuộc 61 họ.

+ Cá được coi là động vật thủy sinh quan trọng của đầm. Đã điều tra được có 54 loài, thuộc 17 họ và 9 bộ. Tất cả các loài cá ở đây đều là các loại điển hình cho vùng ao hồ đầm đồng bằng sông Hồng.

* Các loài động vật, thực vật quý hiếm, đặc hữu:

KBTTN đất ngập nước Vân Long hiện đang sinh sống một số lượng khá lớn là 39 loài thực vật và động vật quý hiếm được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam: Thực


vật 12 loài, động vật 27 loài. Các loài thực vậy quý hiếm có: Sưa, sơn địch, nghiến, lát hoa, tuế đá vôi, bổ cốt toái, chân danh, rau sắng, khuyết lá thông, mã tiền tán, bách bộ, bò cạp núi. Các loài động vật – thân mềm quý hiếm có: Ốc vặn hình tháp, trai cóc hình tai, trai cóc tròn, trai cánh mỏng. Côn trùng ở nước quý hiếm có Cà cuống. Cá quý hiếm có cá Rầm xanh. Bò sát quý hiếm có: rắn Hổ mang, rắn Hổ mang chúa, rắn Sọc khoanh, rắn Ráo trâu, rắn Cạp nong, rắn Ráo thường, Tắc kè, Kỳ đà hoa. Chim: có Sâm cầm, Phượng hoàng đất, Gà lôi… Các loài Thú gồm: Dơi chó tai ngắn, Cu li lớn, Khỉ mặt đỏ, Voọc quần đùi trắng, Gấu ngựa, Rái cá thường, Cầy mực, Cây vằn bắc, Báo gấm, Báo hoa mai, Sơn dương, Tê tê. Trong đó đặc biệt phải kể tới loài Voọc quần đùi trắng – loài đặc trưng quý hiếm ở Việt Nam

Loài Voọc quần đùi trắng (Trachypithecus delacouri) thuộc họ khỉ, bộ linh trưởng. Loài này không chỉ có giá trị bảo tồn quan trọng ở trong nước mà trên cả thế giới. Đây là một trong 25 loài linh trưởng đặc biệt quý hiếm trên thế giới cần bảo vệ.Ở Việt Nam quần thể Voọc quần đùi trắng chỉ còn khoảng 300 cá thể và phân bố ở 3 tỉnh: Hòa Bình, Ninh Bình và Thanh Hóa.

Theo khảo sát năm 2001, tại khu BTTNĐNN Vân Long có 43 cá thể Voọc quần đùi trắng. Song cho đến nay, nhờ được vảo vệ tốt số cá thể đàn Voọc quần đùi trắng có khoảng 100 cá thể. Chúng sống thành từng đàn nhỏ, mỗi đàn thường có một đực, vài cái và một số Voọc con. Các đàn Voọc thường dễ gặp nhấtở dãy núi Đồng Quyển - Hoàng Quyển .

b. Giá trị về cảnh quan sinh thái

KBTTNĐNN Vân Long phổ biến là địa hình karst, hoạt động thường xuyên và mạnh mẽ do địa hình chủ yếu chứa các thành tạo đá vôi, có lượng mưa lớn, có nền nhiệt cao và nước tầng mặt khá phong phú. Các thành tạo đá vôi được tạo ra rất đa dạng cả trên mặt đất và dưới mặt đất.

- Đỉnh và sườn các khối núi karst là thành tạo đá vôi phổ biến ở KBT. Đỉnh các khối này thường sắc nhọn với các chỏm đá tai mèo đặc trưng. Sườn dốc đứng với nhiều đống đá sụp đổ tạo nên cảnh quan đẹp. Các đỉnh núi có độ cao khoảng từ 100 – 500m như: đỉnh Ba Chon (426m), đỉnh Đồng Quyền (328m), đỉnh Mào Gà


(308m), đỉnh Núi Súm (233m), đỉnh Mèo Cào (206m), đỉnh Núi Mây (138m), đỉnh Núi Lương (128m) và đỉnh Cô Tiên (116m).

- Phễu và các hố sụt karst (địa phương gọi là thung) ở đây rất phổ biến với mật độ 2 - 3 phễu/km2. Kích thước các phễu chỉ đạt vài ha hiếm khi đạt trên 10 ha. Các phễu có tiếng là thung Cận, thung Đầm Bái, thung Quèn Cả, thung Hoa Lư (Thung Lau), thung Đồng Rộng, thung Giếng méo… Hình dạng các hố thụt tương đối thẳng đứng, đáy khá bằng phẳng và được bao quanh bởi các vách đá dựng đứng. Đất trong các phễu và hố sụt karst rất màu mỡ, thích hợp cho việc trồng các loại cây ăn quả.

- Hang động karst: các hang động karst ở đây khá nhiều nhưng đều không lớn, ngắn, trần thấp và ít thạch nhũ. Các điều tra nghiên cứu về các hang động ở đây còn sơ sài. Đại bộ phận là các hang ở chân núi. Trước khi đắp đê Đầm Cút ngăn lũ (trước 1963 – 1964), phần lớn các hang này là những hang cạn, sau khi đắp đê hầu hết các hang này bị ngập nước quanh năm. Điển hình là hang Cá, hang Vồng, hang Bóng…Một số hang đẹp có hang Cá, hang Bóng, hang Thanh Sơn, hang Thúi Thó, hang Bà Nghiệp, hang Tranh, hang Đá Đỏ, hang Thung Dơi.

c. Giá trị đối với sinh thái môi trường

Với diện tích gần 1.000 ha đất ngập nước, được bao quanh bởi các dãy núi đá vôi và tuyến đê đầm Cút nước ngập quanh năm, hoang sơ và không bị ảnh hưởng nhiều do các yếu tố tác động của con người, khu đất ngập nước Vân Long được cấp và tiêu nước từ các con sông bao quanh là sông Hoàng Long và sông Đáy. Mực nước trong đầm dao động giữa 2 mùa, mùa cạn và mùa mưa. Suối Tép và các nhánh của nó ở trong Khu đất ngập nước là dòng chảy và có độ sâu hơn các nơi khác nên hiện nay được khai thác làm tuyến du lịch sinh thái bằng thuyền trong Khu bảo tồn.Nước ở khu đầm Cút sạch và không bị ô nhiễm, nhờ vai trò lọc sạch của cả quần thể thực vật thủy sinh và vi tảo tồn tại và phát triển dày đặc ở trong đầm.Nguồn nước và các thủy sinh vật ở Khu đất ngập nước có quan hệ chặt chẽ với cá sinh vật sống ở khu vực, đây là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho các loài chim, thú, bò sát…


KBTTN đất ngập nước Vân Long hiện tại có vai trò quan trọng về khoa học, kinh tế, văn hóa, xã hội như: điều tiết nước - dòng chảy mặt, cấp nước ngầm, nước sinh hoạt, nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, điều hòa khí hậu, xử lý ô nhiễm, cung cấp lương thực thực phẩm, đa dạng sinh học và cảnh quan du lịch.

3.1.3.2. Tài nguyên du lịch nhân văn

a. Các di tích lịch sử văn hóa

Được thành lập ngay trên vùng đất có lịch sử lâu đời - vùng đất mà hai triều đại Đinh, Lê chọn làm kinh đô, Vân Long lúc đó thuộc châu Đại hoàng (thế kỷ X). Các di tích văn hóa, lịch sử, tôn giáo có ở khắp nơi. Trong giới hạn của KBTTN đất ngập nước Vân Long, một số địa danh nổi tiếng như:

- Động Hoa Lư ở Thung Lau và đền Thung Lá (xã Gia Hưng): Đây là căn cứ đầu tiên của sứ quân Đinh Bộ Lĩnh đối với sự nghiệp thống nhất giang sơn thế kỷ

X. Động nằm cách Cố đô Hoa Lư khoảng 15km và thành phố Ninh Bình 20km đường bộ về phía Bắc. Di tích này là một thung lũng rộng khoảng 16 mẫu nằm lộ thiên được bao bọc bởi các ngọn núi vòng cung. Bốn bề động Hoa Lư được núi đá bao quanh vô cùng kiên cố, chỉ có một lối vào duy nhất là một quèn nhỏ cao khoảng 30m. Bao bên ngoài động là đầm Cút, dài khoảng 3km, rộng 500m, như con hào thiên nhiên chắn giữ, từ đây có thể tiến ra sông Đáy. Cùng với cố đô Hoa Lư, các di tích động Hoa Lư, thung Lá, đền thờ Đinh Bộ Lĩnh thuộc huyện Gia Viễn là những di tích liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của vua Đinh Tiên Hoàng. Trong đó, đền thung Lá đã được đầu tư xây dựng xong. Đây là nơi thờ thân mẫu của Đinh Bộ Lĩnh. Ngay cạnh đó là Thung Lau, cũng nằm lọt giữa thành núi cao ngất, tương truyền xưa kia có một nữ vương chuyên bói lá rất giỏi, thường xem lá cho Vua Đinh Tiên Hoàng trước khi xuất quân hay làm một việc gì đó.

- Đền thờ Tứ vị Hồng Nương (xã Gia Vân), thờ 4 vị tướng của Hai Bà Trưng. Đến tham quan Đền còn có thể được xem 3 tờ chiếu công nhận của 3 đời vua triều Nguyễn là: Thành Thái, Duy Tân và Khải Định.

- Chùa Thanh Sơn Tự (xã Gia Vân) đặt ở hang ở độ cao 30m.Nơi đây có đường thông lên trời và đường ngầm thông ra Đầm Vân Long.


- Động Địch Lộng (xã Gia Thanh) là nơi được tôn vinh Nam Thiên Đệ Tam động (Đẹp thứ ba trời Nam).

- Đền thờ đức thánh Nguyễn (Nguyễn Minh Không) tại xã Gia Thắng là nhân vật lịch sử có thật được người Việt tôn sùng là đức thánh Nguyễn. Trong dân gian, Nguyễn Minh Không còn được coi là một vị thánh trong tứ bất tử ở Việt Nam và ông tổ nghề đúc đồng, là vị cao tăng đứng đầu triệu đại nhà Lý (Lý Quốc Sư).

- Mộ Nguyễn Bặc là công thần khai quốc nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn 12 sứ quân vào thế kỷ 10 trong lịch sử Việt Nam. Theo các gia phổ Họ Nguyễn và tài liệu “Lược sử họ Nguyễn tại Việt Nam”, ông được coi là bậc tiền thủy tổ họ Nguyễn ở Việt Nam.

Trong khu vực 7 xã quanh Khu bảo tồn còn có rất nhiều ngôi đền, đình chùa, miếu, nhà thờ và nhà cầu nguyện…

b. Các tuyến tham quan

Hiện tại Ban quản lý KBT đã phối hợp với cộng đồng địa phương xây dựng được một số tuyến du lịch như ở các hình 3.3 đến 3.6.

+ Tuyến 1 đi thuyền: từ bến du lịch Vân Long tới hang Vồng, rồi tiếp tục đi, hang Bóng Kẽm Trăm tới Đập Mới rồi quay lại.

+ Tuyến 2 đi thuyền: từ bến du lịch Vân Long tới chùa Bái Vọng, rồi tiếp tục đi thuyền dọc dãy núi Mèo Cào lần lượt qua hang Bà Nghiệp, Vườn Thị tới hang Cá rồi quay lại.

+ Tuyến 3 đi bộ: đi từ bến du lịch Vân Long, theo bờ đê đến Đầm Cút thăm chùa Thanh Sơn Tự. Rời chùa tới thôn Cọt (xã Gia Hưng) thăm vườn cây ăn trái, theo đường mòn lên núi qua đền Thung Lá rồi vào thăm khu rừng trong Thung Quèn Cả.

Những tuyến du lịch trên đều thuộc xã Gia Vân, Gia Hòa và Gia Hưng. Với đường giao thông thuận lợi đi đến các tuyến du lịch, nằm gần khu dân cư qua lại các địa danh nổi tiếng nên thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Đặc biệt là tuyến thăm du lịch Vân Long – Hang Bóng Kẽm Trăm – Đập Mới và tuyến du lịch quan sát Voọc ở dãy núi Đồng Quyển.

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 30/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí