một cách riêng biệt. Từ đó, theo quan điểm của SNA, xem xét chỉ tiêu chi tiêu của du lịch quốc tế đến là một phần của chỉ tiêu xuất khẩu hay còn được gọi là xuất khẩu trực tiếp; chi tiêu của du lịch nội địa thuộc chỉ tiêu tiêu dùng cuối cùng của dân cư. Xét trên quan điểm tiêu dùng, đây là hai chỉ tiêu quan trọng trong việc xem xét, phân tích nội hàm chỉ tiêu GDP chi tiết theo các bộ phận cấu thành của nó và có tác động trực tiếp và gián tiếp đến nền kinh tế. Tiếp theo, Luận án sử dụng Bảng I-O dạng phi cạnh tranh để đánh giá tác động riêng biệt của hai bộ phận du lịch là du lịch quốc tế và du lịch nội địa đến tăng trưởng kinh tế thông qua tác động vào các ngành kinh tế một cách trực tiếp và gián tiếp. Trên cơ sở đó tính toán được tác động tổng hợp của hoạt động du lịch đến giá trị gia tăng và GDP, đến tạo việc làm trong các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động du lịch.
1.2. Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu
Hoạt động du lịch đã được hình thành và phát triển từ rất lâu. Nếu như trước đây, du lịch được xem xét như là sở thích hoặc một hình thức nghỉ ngơi, thư giãn của con người thì ngày nay ở hầu hết các nước trên thế giới, du lịch đã trở thành một nhu cầu phổ biến trong đời sống văn hóa, xã hội của nhiều tầng lớp nhân dân. Khách du lịch đang tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Xét về kinh tế, nhiều nước trên thế giới đã xác định du lịch là một ngành kinh tế quan trọng. Hệ thống du lịch quốc tế đã được thiết lập dựa trên sự liên kết, hợp tác giữa nhiều quốc gia. Lợi ích kinh tế do hoạt động du lịch mang lại rất to lớn thông qua tiêu dùng sản phẩm du lịch của du khách. Bên cạnh các nhu cầu đối với sản phẩm vật chất và dịch vụ thông thường, du khách còn có các nhu cầu đặc biệt khác. Ví dụ như mong muốn tìm hiểu thế giới tự nhiên và xã hội, khám phá những điều bí ẩn của thiên nhiên, trải nghiệm cuộc sống tại những vùng mà con người khó có thể đặt chân đến (trong lòng đất, trên những đỉnh núi cao, hay đi vào vũ trụ,… ). Những nhu cầu này không dừng lại và ngày càng tăng lên.
Giống như tiêu dùng các dịch vụ khác, quá trình tiêu dùng sản phẩm dịch vụ du lịch đồng thời với quá trình sản xuất ra chúng. Tuy nhiên, khác với tiêu dùng sản phẩm dịch vụ, tiêu dùng sản phẩm du lịch luôn gắn liền với tiêu dùng sản phẩm của nhiều ngành sản xuất vật chất, dịch vụ khác nhau. Địa điểm tiêu dùng các sản phẩm trong hoạt động du lịch không diễn ra tại nơi mà người tiêu dùng (du khách) sinh sống thường xuyên. Điều này tạo ra đặc tính liên kết ngành và liên kết vùng của hoạt động du lịch. Chính sự khác biệt đó đem đến những lợi thế riêng có của hoạt động du lịch. Phát triển ngành du lịch có nghĩa là phát triển hàng loạt các ngành kinh tế khác kèm theo và sẽ dẫn đến dịch chuyển cơ cấu kinh tế của một vùng, một quốc gia. Đồng thời hoạt động du lịch phát triển cũng góp phần kích thích dịch chuyển các luồng vốn, tiền
tệ, hàng hóa giữa các vùng kinh tế hoặc giữa các quốc gia.
Du lịch là một trong những ngành kinh tế có tốc độ phát triển nhanh. Theo UNWTO Annual Report 2013 (2014, tr11) cho biết, năm 2013 doanh thu hoạt động du lịch của toàn thế giới tăng khoảng 5% với 1.087 triệu lượt khách. Dự báo du lịch thế giới sẽ tiếp tục tăng trưởng một cách bền vững trong những năm tới và sẽ đạt khoảng 1,8 tỷ lượt khách vào năm 2030.
Vai trò quan trọng của du lịch là tạo ra khối lượng việc làm đáng kể bởi các ngành hoạt động có liên quan đến du lịch đều là những ngành sử dụng nhiều lao động. Theo đánh giá mới đây của UNWTO, lao động phục vụ trong các hoạt động du lịch chiếm khoảng 8% lao động toàn cầu. Du lịch phát triển tạo ra thu nhập và giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần ổn định và phát triển kinh tế, xã hội. Du lịch có vai trò quan trọng trong thúc đẩy thương mại quốc tế. Theo thông báo mới đây của UNWTO Annual Report 2015 (2016, Tr 10), hàng năm với hơn một tỷ lượt khách quốc tế, du lịch đã đóng góp khoảng 6% tổng xuất khẩu toàn thế giới.
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò và đóng góp quan trọng của ngành du lịch trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế việc đánh giá tác động thực sự của ngành du lịch trong tăng trưởng kinh tế chưa được đầy đủ và toàn diện. Việc xác định rõ ràng và đúng mức tác động của du lịch vào bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế đối với mỗi quốc gia cũng như trên toàn cầu là rất cần thiết. Các nhà kinh tế, các nhà quản lý, hoạch định chính sách cần những con số đầy đủ hơn, toàn diện hơn về du lịch để đưa ra các chính sách đầu tư, phát triển một cách đồng bộ và hiệu quả. Với cách tiếp cận trên, cần làm rõ các phương pháp đánh giá du lịch ở trong nước và trên thế giới, từ đó nghiên cứu, đề xuất cách đánh giá tác động của ngành du lịch vào GDP, đảm bảo tính kế thừa và phát triển trong khoa học. Trên cơ sở đó có thể xem xét, đánh giá, phân tích đúng vai trò và hiệu quả của hoạt động du lịch đối với phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và quốc tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu thống kê tác động tổng hợp của du lịch đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam - 1
- Nghiên cứu thống kê tác động tổng hợp của du lịch đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam - 2
- Mã Số Và Nội Dung Hoạt Động Du Lịch Theo Vsic 2007
- Phương Pháp Xác Định Một Số Chỉ Tiêu Thống Kê Du Lịch
- Phương Pháp Xác Định Một Số Chỉ Tiêu Phản Ánh Tăng Trưởng Kinh Tế
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
1.3. Ý nghĩa của nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống hóa và làm rõ hơn các phương pháp đánh giá kết quả của hoạt động du lịch. Từ đó đề xuất cách đánh giá kết quả của hoạt dộng du lịch dựa trên các chỉ tiêu thống kê về chi tiêu của khách du lịch quốc tế, khách du lịch nội địa, Bảng I-O và các chỉ tiêu có liên quan thuộc SNA và TSA.
Nghiên cứu đưa ra cách đánh giá chi tiết và cụ thể hơn khi xem xét và lượng hóa tác động tổng hợp du lịch quốc tế, du lịch nội địa đối với tăng trưởng và tạo việc làm trong các ngành kinh tế.
Nghiên cứu góp phần làm rõ hơn vai trò, vị trí của hoạt động du lịch đối với tăng trưởng của các ngành có liên quan trực tiếp và gián tiếp cũng như ảnh hưởng đến việc tạo việc làm cho từng ngành và trong toàn bộ nền kinh tế.
Với tất cả các lý do trên, tác giả đã lựa chọn chủ đề của Luận án: “Nghiên cứu thống kê đánh giá tác động tổng hợp của du lịch đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”.
2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất và xây dựng cách tính toán lượng hóa tác động của du lịch đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam một cách toàn diện, đầy đủ và khả thi. Đồng thời xem xét tác động của du lịch đến tăng trưởng kinh tế qua biểu hiện chính của hai loại khách du lịch là du lịch quốc tế và du lịch nội địa.
Các nghiên cứu trước đây đã tập trung xem xét du lịch từ phía cung hoặc từ phía cầu, hoặc trong quan hệ cung cầu nhưng ở mức độ tổng hợp chưa cho phép đánh giá đầy đủ vị trí vai trò của du lịch chi tiết theo hai loại khách du lịch. Chính vì vậy, dựa trên phương pháp luận của hệ thống tài khoản quốc gia nghiên cứu làm rõ hơn nội hàm và phạm vi của hoạt động du lịch. Từ đó phân tích, đánh giá những tác động của du lịch, trong mối quan hệ cung - cầu và chi tiết theo du lịch quốc tế và du lịch nội địa. Để đảm bảo tính khả thi, nghiên cứu thử nghiệm tính toán cho trường hợp của Việt Nam năm 2013.
2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Xuất phát từ mục tiêu đánh giá một cách toàn diện nhất, tổng thể nhất tác động của du lịch đến tăng trưởng kinh tế, nội dung nghiên cứu trả lời các câu hỏi sau:
Câu hỏi chính: Phương pháp đánh giá tác động tổng hợp của du lịch nội địa và du lịch quốc tế đến tăng trưởng kinh tế như thế nào?
Các câu hỏi phụ:
- Du lịch nội địa và du lịch quốc tế tác động trực tiếp đến giá trị tăng thêm (VA) và GDP như thế nào?
- Du lịch nội địa và du lịch quốc tế tác động gián tiếp đến VA và GDP như thế nào?
- Tác động tổng hợp của du lịch nội địa và du lịch quốc tế đến tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm như thế nào?
3. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tác động của du lịch quốc tế và du lịch nội địa đến tăng trưởng kinh tế. Tác động của du lịch cần được xem xét chi tiết theo hai loại khách du lịch để thấy rõ ảnh hưởng của từng loại hình du lịch đối với tăng trưởng kinh tế một cách riêng biệt. Việc tách chi tiết này cũng cho phép xác định rõ vai trò và vị trí của từng loại hình du lịch trong bức tranh du lịch nói chung. Đây chính là cơ sở quan trọng để nghiên cứu, phân tích và đề xuất những biện pháp tăng cường tác động, ảnh hưởng của du lịch theo từng loại hình du lịch đến tăng trưởng kinh tế một cách chi tiết và phù hợp hơn.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Trong phạm vi nghiên cứu, Luận án xác định mô hình, nguồn thông tin và phương pháp tính nhằm đo lường tác động tổng hợp về mặt kinh tếcủa du lịch đến tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu không xem xét ảnh hưởng về mặt văn hóa, chính trị và xã hội của du lịch đến một vùng, một quốc gia. Mặc dù trên thực tế, ảnh hưởng của du lịch đến các lĩnh vực này cũng rất cần được quan tâm trong chính sách phát triển của một vùng, một quốc gia. Luận án tập trung nghiên cứu tác động của du lịch quốc tế và du lịch nội địa đến tăng trưởng kinh tế biểu hiện qua đóng góp tạo ra từ chi tiêu của khách du lịch đến quy mô và tỷ trọng các chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế.
+ Về thời gian nghiên cứu: Luận án sử dụng dữ liệu thứ cấp phục vụ tính toán thử nghiệm với thông tin cập nhật nhất do Tổng cục Thống kê (TCTK) công bố gồm: Bảng I-O của Việt Nam năm 2012 và kết quả điều tra chi tiêu của du lịch năm 2013.
+ Về không gian nghiên cứu: Phương pháp luận và thử nghiệm tính toán trong Luận án xây dựng cho phạm vi toàn bộ nền kinh tế có hoạt động du lịch; trong đó, tập trung nghiên cứu đối với du lịch trong nước, bao gồm du lịch quốc tế đến và du lịch nội địa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sau khi tổng hợp các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề
tài nghiên cứu, tác giả lựa chọn các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích trên cơ sở phương pháp luận của:
+ Hệ thống Tài khoản quốc gia (SNA) của Thống kê Liên hợp quốc;
+ Tài khoản du lịch (TSA) của UNWTO.
Luận án sử dụng phương pháp luận của SNA, trung tâm là Bảng I-O để thực hiện nghiên cứu.
Hai loại hình du lịch là du lịch quốc tế và du lịch nội địa được quan sát, đo lường và đánh giá theo phương pháp của TSA.
Luận án dựa trên mối quan hệ liên ngành trong Bảng I-O là trung tâm của SNA
để lượng hóa tác động của du lịch quốc tếvà du lịch nội địa đến tăng trưởng kinh tế.
- Phương pháp khai thác dữ liệu sẵn có qua:
+ Điều tra khách du lịch quốc tế Tổng cục Thống kê;
+ Điều tra khách du lịch nội địa của Tổng cục Du lịch.
- Phương pháp mô hình hóa: Sử dụng mối quan hệ đã được lượng hóa của Bảng I-O để tính toán tác động tổng hợp của du lịch quốc tế và du lịch nội địa đến tăng trưởng kinh tế.
5. Những đóng góp mới của Luận án
Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
- Luận án đã làm rõ tác động của du lịch quốc tế và du lịch nội địa đến tăng trưởng kinh tế theo đánh giá tác động trực tiếp, tác động gián tiếp và tác động tổng hợp.
- Luận án đã đề xuất 02 nhóm chỉ tiêu phục vụ đánh giá tác động tổng hợp của du lịch đến tăng trưởng kinh tế:
+ Nhóm chỉ tiêu/nhân tố đầu vào phản ánh du lịch trong nước (gồm các chỉ tiêu phản ánh khách du lịch quốc tế đến và khách du lịch nội địa);
+ Nhóm chỉ tiêu đầu ra biểu hiện tác động tổng hợp của du lịch quốc tế và du lịch nội địa đến tăng trưởng kinh tế, gồm 05 chỉ tiêu: Giá trị sản xuất (GO) của du lịch, VA của du lịch, GDP của du lịch, thu nhập của người lao động từ du lịch và lao động du lịch.
- Dựa trên thông tin từ Bảng I-O cạnh tranh, luận án đề xuất sử dụng Bảng I-O phi cạnh tranh làm công cụ tính toán và phân rõ tường minh vai trò của du lịch quốc tế và du lịch nội địa khi đánh giá tác động của hoạt động du lịch đối với tăng trưởng kinh tế.
Những đề xuất rút ra từ kết quả nghiên cứu, đánh giá của luận án
Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thử nghiệm tính toán cho trường hợp của Việt Nam năm 2013, Luận án đã đề xuất một số khuyến nghị nhằm đẩy mạnh tác động của du lịch đến tăng trưởng kinh tế và tăng cường công tác thống kê đánh giá tác động của
du lịch đến tăng trưởng kinh tế như sau:
- Để nâng cao đóng góp của du lịch đối với phát triển kinh tế, chính sách thu hút khách du lịch quốc tế cần được quan tâm hơn nữa đến việc khuyến khích chi tiêu các sản phẩm sản xuất trong nước, tăng cường xuất khẩu trực tiếp hàng nội địa, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước; Tập trung đầu tư cho những ngành có tác động gián tiếp cao hơn, tức là có ảnh hưởng tốt đến nền kinh tế như: Phân phối hàng hóa, tham quan, vui chơi giải trí và khám chữa bệnh;
- Cần thống nhất và chuẩn hóa khái niệm về du lịch và một số chỉ tiêu có liên quan phục vụ đánh giá tác động tổng hợp của du lịch đến tăng trưởng kinh tế;
- Tổng cục Thống kê cần nghiên cứu và áp dụng phương pháp điều tra chi tiêu khách du lịch nội địa qua đơn vị điều tra là hộ gia đình và hàng năm cần tiến hành tính toán và công bố tác động tổng hợp của du lịch đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận án gồm 3 chương:
Chương 1. Lý luận chung về tác động tổng hợp của du lịch đến tăng trưởng kinh tế.
Chương 2. Phương pháp đánh giá tác động tổng hợp của du lịch đến tăng trưởng kinh tế.
Chương 3. Đánh giá tác động tổng hợp của du lịch đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2013.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG
TỔNG HỢP CỦA DU LỊCH ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Chương mở đầu của Luận án giới thiệu những lý luận được công nhận và sử dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Chương 1 gồm 3 nội dung chính, (1). Lý luận về du lịch và phương pháp xác định một số chỉ tiêu thống kê du lịch; (2) Tăng trưởng kinh tế và phương pháp xác định một số chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế; và (3) Tác động tổng hợp của du lịch đến tăng trưởng kinh tế và các chỉ tiêu biểu hiện.
1.1. Lý luận về du lịch và phương pháp xác định một số chỉ tiêu thống kê du lịch Để nhận biết và đo lường được du lịch, trước hết cần có khái niệm rõ ràng về du lịch, thống nhất với mục tiêu và phạm vi nghiên cứu. Khái niệm du lịch cần được xem xét trong mối liên hệ với các khái niệm có liên quan. Tiếp theo, căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu, phương pháp đo lường du lịch được xác định thông qua việc nhận biết và đo lường các chỉ tiêu phản ánh các khía cạnh của hoạt động du lịch. Trong mục này Luận án tập trung làm rõ hai nội dung chính: Các khái niệm về du lịch và phương pháp đo lường du lịch.
1.1.1. Các khái niệm về du lịch và thống kê du lịch
Du lịch là hoạt động kinh tế -xã hội đã được hình thành và phát triển từ rất lâu cùng với sự hình thành phát triển của xã hội loài người. Ngày nay, du lịch đã trở thành một hoạt động phổ biến xuất hiện ở hầu hết các nước trên thế giới, ở các nước phát triển và cả các nước đang phát triển. Kinh tế càng phát triển thì nhu cầu của du lịch ngày càng cao với những hình thức và nội dung hết sức phong phú và đa dạng. Xét trên giác độ tinh thần, du lịch đang dần trở thành nhu cầu thiết yếu của mọi tầng lớp dân cư. Du lịch không chỉ phục vụ cho nhu cầu tham quan, vui chơi, giải trí đơn thuần mà còn kết hợp với các hoạt động khác như hội họp, đào tạo, nghiên cứu, khảo sát kinh doanh,... Theo đó, khái niệm du lịch cũng được phát triển và hoàn thiện phù hợp với các cách tiếp cận và hướng nghiên cứu khác nhau. Đồng thời khái niệm du lịch cũng được xem xét trong mối quan hệ với các khái niệm khác có liên quan.
1.1.1.1. Khái niệm du lịch
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ diễn ra nhanh chóng, hoạt động du lịch có những thay đổi cả về nội dung, hình thức. Theo đó, khái niệm du lịch cũng hết sức phong phú và đa dạng, phát triển theo các quan điểm và
góc độ nghiên cứu khác nhau.
Trong tiếng Anh, từ “Du lịch” xuất phát từ tiếng “To Tour” có nghĩa là cuộc dạo chơi (Tour round the world - cuộc đi vòng quanh thế giới; To go for tour round the town - cuộc dạo quanh thành phố; Tour of inspection- cuộc kinh lý kiểm tra, …). Tiếng Pháp, từ du lịch bắt nguồn từ Le Tour cũng có nghĩa là cuộc dạo chơi, dã ngoại,
… Từ góc nhìn của các nhà địa lý học (trích dẫn trong Nguyễn Lê Anh, 2010, tr.12) định nghĩa du lịch là sự tập hợp những hoạt động và tiêu thụ cho việc đi lại và ngủ lại ít nhất một đêm ngoài nơi ở thường ngày với lý do giải trí, kinh doanh, sức khỏe, hội họp, thể thao hoặc tôn giáo.
Theo quan điểm kinh tế học, Kafiotis (trích dẫn trong Nguyễn Lê Anh, 2010, tr.12) cho rằng du lịch là sự di chuyển tạm thời của cá nhân hay tập thể từ nơi này đến nơi khác nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, đạo đức, do đó tạo nên các hoạt động kinh tế.
Theo Hunziker và Krapf (trích dẫn trong Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa, 2008, tr.14), được xem là những người tiên phong trong lý luận về du lịch đã đưa ra định nghĩa:
“Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và không liên quan đến hoạt động kiếm lời.”
Từ điển bách khoa quốc tế về du lịch định nghĩa: “Du lịch là tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực hiện một dạng hành trình, là công nghiệp liên kết nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch... du lịch là cuộc hành trình mà một bên là người khởi hành với mục đích đã chọn trước và một bên là những công cụ làm thỏa mãn các nhu cầu của họ”.
Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất trao đổi hàng hóa, dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí tìm hiểu và các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế, chính trị - xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân doanh nghiệp. (Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa, 2008, tr.16)
Luật Du lịch, ngày 14 tháng 6 năm 2005 Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành, tại Điều 4 (2005, tr. 1) giải thích “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.