Các Giải Pháp Liên Quan Đến Đặc Điểm Của Hội Đồng Quản Trị


Đại hội đồng cổ đông thông qua; hai là, tổng số cổ phiếu phát hành theo chương trình trong mỗi 12 tháng không được vượt quá 5% số cổ phần đang lưu hành của công ty; ba là, Hội đồng quản trị phải công bố rõ những nội dung về các tiêu chuẩn và danh sách người lao động được tham gia chương trình, nguyên tắc xác định giá bán, nguyên tắc xác định số cổ phiếu được phân phối cho từng đối tượng và thời gian thực hiện. Việc phát hành ESOP được sử dụng khá phổ biến tại các công ty trên thế giới, đặc biệt là công ty công nghệ, và cũng không còn quá xa lạ ở Việt Nam. Tuy vậy, ESOP phát sinh mặt trái khi nhiều công ty niêm yết thực hiện phát hành ESOP với giá phát hành quá thấp so với giá thị trường, như trường hợp ngân hàng Việt Nam Thịnh vượng (VPB) năm 2018 giá thị trường 26.000 đồng, giá ESOP là 10.000 đồng, hay Công ty Cổ phần thế giới Di động (MWG) năm 2020 đã phát hành ESOP giá 10.000 đồng, trong khi giá trị thị trường là 128.000 đồng. Ngoài ra, cần phải được làm rõ tiêu chí đối tượng nhận quyền mua ESOP, tránh việc thao túng biến ESOP thành công cụ vì lợi ích cá nhân của một nhóm lãnh đạo chủ chốt. Mặc dù có nhiều mặt trái, nhưng không thể phủ nhận giá trị mang lại của ESOP trong việc khuyến khích, động viên cán bộ nhân viên gắn bó và cống hiến vì công ty. Do vậy, các công ty niêm yết cần lựa chọn phương án ESOP liên quan tới khối lượng phát hành, giá phát hành, đối tượng thụ hưởng công bằng, hợp lý, vừa khuyến khích được nhân viên, vừa không gây phương hại tới quyền lợi của cổ đông hiện hữu.

Giải pháp liên quan tới sở hữu Nhà nước


Kết quả nghiên cứu cho thấy các công ty có tỷ lệ sở hữu Nhà nước càng lớn thì chất lượng TTKT càng tốt. Điều này được lý giải rằng các công ty nhận góp vốn từ Nhà nước bên cạnh mục tiêu về lợi nhuận, còn thực hiện các mục tiêu chính trị. Sự hỗ trợ về vốn và các cơ chế chính sách từ Nhà nước giúp cho BGĐ càng đơn vị có vốn góp Nhà nước không quá áp lực về kết quả kinh doanh của đơn vị. Mặt khác, tại các công ty sở hữu Nhà nước, vị thế của cổ đông thiểu số rất hạn chế, do vậy BGĐ các công ty này không phải chịu áp lực đáng kể về lợi nhuận, do vậy hạn chế động cơ điều chỉnh TTKT. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu không hàm ý chính sách về việc gia tăng tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại các công ty niêm yết. Tại Việt Nam, Nhà nước chủ trương cổ phần hóa, thoái vốn nhằm tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, do vậy việc thu hút vốn đầu tư Nhà nước không được coi là giải pháp phù hợp. Một hướng giải thích


khác cho rằng các công ty có vốn Nhà nước có CLTT kế toán tốt hơn các doanh nghiệp tư nhân là bởi BGĐ các công ty này gặp áp lực liên quan tới chế tài xử phạt trong trường hợp để phát sinh các gian lận và điều chỉnh thông tin công bố. Do vậy, đứng từ góc độ doanh nghiệp, các công ty niêm yết có thể xây dựng một hệ thống chế tài xử phạt đối với các hành vi thiếu trung thực của BGĐ, đặc biệt trong việc công bố các TTKT, gây phương hại tới lợi ích các bên liên quan bao gồm trừ vào lương thưởng, khiển trách, cảnh cáo, sa thải, thậm chí truy tố pháp luật.

5.2.2. Các giải pháp liên quan đến đặc điểm của Hội đồng quản trị


Kết quả nghiên cứu của Luận án đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác động của đặc điểm HĐQT tới CLTT kế toán. Các công ty có quy mô HĐQT lớn, độc lập, thành viên có thâm niên và chuyên môn trong lĩnh vực tài chính kế toán và có tỷ lệ thành viên nữ cao sẽ gia tăng hiệu quả giám sát, từ đó cung cấp CLTT kế toán tốt.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.

Xét về quy mô HĐQT, kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho thấy HĐQT có quy mô càng lớn thì CLTT kế toán càng tốt. Theo Nghị định số 71/2017/NĐ-CP, quy mô HĐQT phải tối thiểu 3 thành viên và tối đa 11 thành viên. Mặc dù các công ty niêm yết đã tuân thủ tốt quy định này, nhưng nhìn chung quy mô thành viên HĐQT ở Việt Nam khá thấp, chỉ ở mức trung bình 5 thành viên theo thống kê từ dữ liệu nghiên cứu. Trong khi đó tại một số quốc gia khác như Malaysia, trung bình số lượng thành viên HĐQT là 7 người. Việc một HĐQT có quy mô lớn sẽ đa dạng các thành viên với kinh nghiệm và chuyên môn, đồng thời hạn chế sự thông đồng giữa các thành viên, qua đó nâng cao chất lượng giám sát. Do vậy các công ty niêm yết cần xem xét gia số lượng thành viên HĐQT, cân đối phù hợp với quy mô doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện chức năng giám sát, nhằm tối ưu hóa lợi thế của các thành viên, cần có sự phân công phân nhiệm cụ thể, tránh tình trạng chồng chéo hoặc giám sát mang tính hình thức.

Xét về tính độc lập của HĐQT, kết quả nghiên cứu cho thấy các công ty có tỷ lệ thành viên độc lập càng cao thì chất lượng TTKT càng tốt. Nghị định số 71/2017/NĐ-CP quy định các công ty niêm yết cần đảm bảo tối thiểu 1/3 là thành viên độc lập. Các quy định về tính độc lập bao gồm cả độc lập về nhân thân và kinh tế, được nêu rõ trong Luật doanh nghiệp số 59/2020/QH14. Các công ty niêm yết

Nghiên cứu tác động của quản trị công ty tới chất lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 20


ngoài việc tuân thủ các quy định có liên quan, cần gia tăng tỷ lệ thành viên độc lập. Bởi các thành viên độc lập được đánh giá cao ở sự khách quan. Đứng vai trò là nhà giám sát, thành viên độc lập được kỳ vọng sẽ đưa ra các quyết định ít thiên vị hoặc không thiên vị, hạn chế phát sinh xung đột lợi ích nhóm, bảo vệ cổ đông thiểu số và các bên liên quan. Ngoài ra, các thành viên độc lập được kỳ vọng sẽ thể hiện chức năng tư vấn khi những phân tích, quyết định được dựa trên sự khách quan. Sự xuất hiện của thành viên độc lập cũng được xem là minh chứng cho thấy tính công khai minh bạch của các công ty niêm yết. Tuy nhiên các quy định hiện hành mang tính chất phổ quát, do đó các công ty cần xây dựng riêng các chính sách, điều lệ cụ thể với thực tế đơn vị. Việc quy định, bổ nhiệm cần rõ ràng, minh bạch từ khâu đề cử nhân sự để đảm người được đề cử đảm bảo tính độc lập cho tới việc bầu chọn và bổ nhiệm. Các công ty niêm yết có thể thuê các đơn vị tư vấn, kiểm toán để đánh giá tính độc lập của thành viên HĐQT hàng năm. Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm cũng như phát huy các ưu thế từ thành viên độc lập, các chính sách lương thưởng cũng cần được thiết kế phù hợp, tránh tình trạng cấu kết với các thành phần nội bộ, gây phương hại lợi ích của các bên có liên quan.

Xét về tính thâm niên, chuyên môn và giới tính của HĐQT, sự xuất hiện của thành viên nữ và việc thành viên HĐQT càng có thâm niên và chuyên môn kế toán tài chính thì CLTT kế toán cáng tốt. Các thành viên HĐQT có thâm niên và chuyên môn kế toán chính được đánh giá cao trong việc thực hiện chức năng giám sát bởi sự gắn bó, quen thuộc cũng như kinh nghiệm chuyên môn của mình. Trong khi đó các thành viên HĐQT là nữ giới có xu hướng giám sát chặt chẽ và coi trọng sự tuân thủ. Mặc dù, Nghị định số 71/2017/NĐ-CP chỉ mang tính hướng dẫn, theo đó cơ cấu Hội đồng quản trị cần đảm bảo sự cân đối giữa các thành viên có kiến thức và kinh nghiệm về pháp luật, tài chính, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty và có xét yếu tố về giới, song các công ty cần chú trọng hơn về việc lựa chọn thành viên HĐQT hướng tới các cá nhân có chuyên môn tài chính kế toán, thâm niên công tác và trao thêm cơ hội cho các ứng viên nữ. Việc lựa chọn các thành viên có thâm niên công tác cần cân đối với tỷ lệ thành viên độc lập. Ngoài ra do tính chất chuyên môn đặc thù, các thành viên HĐQT có chuyên môn kế toán tài chính có khả năng phát hiện các sai sót, gian lận trên báo cáo tài chính, vì vậy các công ty cần quy định số lượng hoặc tỷ lệ các thành viên có


chuyên môn này. Bên cạnh đó, ngoài việc lựa chọn các thành viên có chuyên môn về tài chính kế toán tốt, các công ty niêm yết có thể tạo điều kiện, hỗ trợ các thành viên tham dự các khóa học trong và ngoài nước nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, từ đó áp dụng trong thực tế quản trị tại chính đơn vị mình.

5.2.3. Các giải pháp liên quan đến đặc điểm của Ban kiểm soát


Kết quả nghiên cứu của Luận án đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của thâm niên BKS tới CLTT kế toán. Theo đó, các công ty có các kiểm soát viên càng có thâm niên sẽ có sự hiểu biết, quen thuộc với hệ thống quản trị, giám sát của đơn vị, do vậy phát huy được hiệu quả giám sát, nâng cao CLTT kế toán. Do đó, khi đề cử nhân sự tham gia Ban kiểm sát, các công ty niêm yết nên lựa chọn các ứng viên có thâm niên công tác tại đơn vị. Tuy nhiên khi bổ nhiệm kiểm soát viên cần chú ý yêu cầu liên quan tới tính thâm niên, cụ thể theo Luật doanh nghiệp 2020, nhiệm kỳ kiểm soát viên không quá 05 năm và có thể được bổ nhiệm lại nhưng không quá 02 nhiệm kỳ liên tục tại công ty đó. Đồng thời, theo Nghị định 71/2017/NĐ-CP, kiểm soát viên không được làm việc trong bộ phận kế toán, tài chính của công ty, trong đó trưởng BKS phải là kế toán viên hoặc kiểm toán viên chuyên nghiệp và phải làm việc chuyên trách tại công ty. Những quy định này dẫn đến việc khó khăn khi lựa chọn các kiểm soát viên vừa có thâm niên công tác tại đơn vị, vừa không làm việc trong bộ phận kế toán tài chính, vừa không quá hai nhiệm kỳ công tác tức là không quá 10 năm. Do vậy, dù ưu tiên lựa chọn các kiểm toán viên có thâm niên, trình độ phù hợp, các công ty vẫn cần đảm bảo quy định về nhiệm kỳ. Những ứng viên BKS có thể xem xét là những người có thâm niên công tác của đơn vị, không nhất thiết là thành viên BKS trước đó, bởi các nhân viên này cũng có ưu thế về sự hiểu biết về doanh nghiệp, từ đó phát huy được chức năng giám sát của BKS, nâng cao CLTT kế toán.

5.2.4. Các giải pháp khác


Giải pháp liên quan tới kiểm toán độc lập


Mặc dù Luận án xem xét quản trị công ty trên khía cạnh nội bộ bao gồm cấu trúc sở hữu, đặc điểm HĐQT, đặc điểm BKS. Tuy nhiên, xét trên quan điểm mở rộng, Gillan (2006) cho rằng, QTCT còn bao gồm các thành phần bên ngoài như sự tham giám sát của các công ty kiểm toán. Kết quả nghiên cứu của Luận án đã cung cấp


bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng tích cực của chất lượng kiểm toán tới CLTT kế toán. Theo đó, các công ty được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán độc lập lớn như Big 4 sẽ có chất lượng TTKT tốt. Các công ty kiểm toán lớn được đánh giá cao về uy tín, tính độc lập và chuyên môn trong lĩnh vực kiểm toán do đó có khả năng phát hiện các sai sót, gian lận về TTKT. Ngoài chức năng kiểm tra, giám sát, các công ty kiểm toán lớn còn thực hiện chức năng tư vấn, bao gồm tư vấn về hệ thống quản trị, qua đó nâng cao hiệu quả giám sát nội bộ từ phía đơn vị. Mặt khác, việc được kiểm toán bởi các công ty có chất lượng tốt giúp nâng cao uy tín của đơn vị về việc công khai, minh bạch thông tin, từ đó nhận được sự tin tưởng từ các bên liên quan như cổ đông, nhà đầu tư, chủ nợ hoặc các cơ quan quản lý. Do đó, các công ty niêm yết có thể cân nhắc lựa chọn các công ty kiểm toán lớn như Big 4 nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao CLTT kế toán.

Giải pháp liên quan tới kiểm toán nội bộ


Bên cạnh kiểm toán độc lập, Hội đồng quản trị và Ủy ban kiểm toán, kiểm toán nội bộ được xem là một trong các cơ chế giám sát quan trọng, thực hiện đánh giá và và tư vấn thường xuyên, từ đó nâng cao hiệu quả quản trị (IIA,2017). Nghị định 05/2019/NĐ-CP đã nhấn mạnh vai trò của kiểm toán nội bộ và quy định các công ty niêm yết phải thực hiện kiểm toán nội bộ. Theo đó, mục tiêu cơ bản của kiểm toán nội bộ là thông qua các hoạt động kiểm tra, đánh giá và tư vấn, kiểm toán nội bộ đưa ra các đảm bảo mang tính độc lập, khách quan và các khuyến nghị về hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị đã được thiết lập và vận hành một cách phù hợp nhằm phòng ngừa, phát hiện, xử lý các rủi ro của đơn vị; các quy trình quản trị và quy trình quản lý rủi ro của đơn vị đảm bảo tính hiệu quả và có hiệu suất cao; các mục tiêu hoạt động và các mục tiêu chiến lược, kế hoạch và nhiệm vụ công tác mà đơn vị đạt được. Kết quả nghiên cứu của Luận án cho thấy các công ty có bộ phận kiểm toán nội bộ thì chất lượng thông tin kế toán sẽ tốt. Do vậy, nhằm nâng cao hiệu quả giảm sát, các công ty niêm yết cần tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ đảm bảo yêu cầu độc lập, khách quan và tuân thủ pháp luật, từ đó nâng cao chất lượng thông tin kế toán.

5.3. Một số khuyến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước liên quan tới quản trị công ty nhằm nâng cao chất lượng thông tin kế toán


5.3.1. Hoàn thiện các văn bản pháp lý quy định về quản trị công ty


Kết quả nghiên cứu cho thấy QTCT giữ vai trò quan trọng trong việc giám sát hoạt động của nhà điều hành và là một trong những công cụ hữu hiệu tăng cường chất lượng thông tin trình bày trên BCTC. Vị vậy, việc ban hành quy định đảm bảo tính khoa học, phù hợp với thực trạng nền kinh tế, chặt chẽ, cụ thể và toàn diện là đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn. Kết quả nghiên cứu ủng hộ và bổ sung các quy định hiện hành về việc tăng cường hiệu quả giám sát của HĐQT. Tuy nhiên trong bối cảnh TTCK ngày càng phát triển, việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài ngày càng tăng, đòi hỏi cần có sự hoàn thiện các văn bản pháp lý theo hướng tiếp cận với các quy định quản trị công ty tại các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời, các văn bản pháp lý cần được làm rõ để giúp các công ty có thể áp dụng vào thực tế đơn vị.

Một là, Nghị định 71/2017/NĐ-CP quy định số lượng thành viên HĐQT là từ 3 đến 11 thành viên, thấp hơn so với một số nước trong khu vực như Thái Lan là 5 đến 12 thành viên (Tăng Thị Thanh Thủy, 2020). Kết quả nghiên cứu cho thấy số thành viên trong HĐQT càng nhiều, hiệu quả mang lại trong quản trị càng cao, theo đó, công tác kiểm tra giám sát đối với hoạt động của Ban giám đốc được tăng cường, hạn chế những cơ hội để Ban điều hành này thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Chính vì thế, cơ quan quản lý Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích gia tăng số lượng thành viên của HĐQT trong phạm vi cho phép hoặc quy định cụ thể số lượng thành viên HĐQT tương ứng với quy mô doanh nghiệp.

Hai là, về chuyên môn của HĐQT, Nghị định 71/2017/NĐ-CP hướng dẫn cơ cấu HĐQT cần đảm bảo sự cân đối giữa các thành viên có kiến thức và kinh nghiệm về pháp luật, tài chính, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty và có xét yếu tố về giới. Văn bản chưa thực sự có định nghĩa về vấn đề chuyên môn, tiêu chí xác định như thế nào là có chuyên môn trong lĩnh vực gì. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp niêm yết công bố thông tin liên quan tới chuyên môn của thành viên HĐQT chủ yếu theo hướng về chuyên ngành tốt nghiệp các bậc Cao đẳng, Đại học, Cao học, Tiến sĩ. Trong khi đó, thực tế có nhiều chuyên gia không tốt nghiệp đúng chuyên ngành nhưng có các chứng chỉ quốc tế về các lĩnh vực như kế toán, tài chính, những người này cũng nên được xem là có chuyên môn trong lĩnh vực nói trên. Mặt khác, trong quá


trình thu thập dữ liệu, tác giả nhận thấy nhiều công ty chỉ công bố trình độ chuyên môn của các thành viên ở mức Đại học, cử nhân, hay thạc sĩ, tiến sĩ thể hiện sự nhầm lẫn giữa vấn đề học vấn và vấn đề chuyên môn. Điều này gây khó khăn trong việc lựa chọn các thành viên HĐQT có kiến thức chuyên môn phù hợp. Do vậy, các cơ quan ban ngành cần có các hướng dẫn chi tiết, giúp các công ty có thể nắm rõ và thực hiện.

Ba là, về việc xử phạt các đơn vị vi phạm về QTCT, các công ty đại chúng, cá nhân liên quan hiện bị xử lý vi phạm theo Nghị định số 108/2013/NĐ-CP với mức phạt từ cảnh báo tới phạt tiền tối đa 100.000.000 đồng. Mức xử phạt hiện nay chưa mang tính răn đe, dẫn đến việc có nhiều công ty niêm yết chưa thực sự nghiêm túc trong việc quản trị công ty và công bố báo cáo có chất lượng. Do đó, Nhà nước cần xem xét tăng mức xử phạt về tài chính cũng như các biện pháp xử lý như ngừng giao dịch cổ phiếu hoặc truy tố pháp luật đối với các cá nhân, tổ chức có hành vi gian lận gây thiệt hại nghiêm trọng đối với các bên liên quan.

5.3.2. Hỗ trợ các công ty niêm yết trong việc hoàn thiện hệ thống quản trị công ty


QTCT có vai trò quan trọng trong việc nâng cao CLTT kế toán, giúp ngăn ngừa các sai sót, gian lận về TTKT. Ngoài các khuyến nghị từ phía các công ty niêm yết, thực hiện theo quy định hướng dẫn của Nhà nước, sự hỗ trợ, tạo điều kiện từ các cơ quan ban ngành và các tổ chức Hiệp hội được coi là một trong những khuyến nghị quan trọng, giúp các công ty hoàn thiện hệ thống quản trị

Trước tiên, Nhà nước cần đẩy mạnh, tuyên truyền vai trò của QTCT. Những năm gần đây, Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức cuộc bình chọn các công ty niêm yết có hệ thống quản trị tốt nhất, và các công ty có báo cáo thường niên tốt nhất. Bộ tiêu chí đánh giá quản trị công ty được xây dựng trên nguyên tắc quản trị công ty của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và khu vực ASEAN, được bên thứ 3 độc lập đánh giá và được soát xét bởi 4 công ty kiểm toán hàng đầu (Big 4). Theo đó, một trong những điểm quan trọng nhất của quản trị công ty là tạo ra một cơ cấu HĐQT có tính phản biện cao nhằm duy trì sự cân bằng giữa rủi ro và lợi ích. Nhóm quản trị công ty tốt là những đơn vị có HĐQT với sự hiện diện của nhiều thành viên độc lập với vai trò phản biện thực chất chứ không phải hình thức. Ðể nâng cao chất lượng báo cáo thường


niên, ngoài các vấn đề liên quan tới tính trung thực, giải thưởng còn khuyến khích các công ty niêm yết bổ sung thông tin về hoạt động quản trị rủi ro doanh nghiệp, so sánh hoạt động của doanh nghiệp với doanh nghiệp cùng ngành, trình bày đánh giá việc thực hiện QTCT hay có thể hiện các hoạt động quan hệ với nhà đầu tư đã thực hiện trong năm. Những giải thưởng này là sự động viên hữu ích từ các cơ quan Nhà nước đối với các công ty luôn nỗ lực hoàn thiện hệ thống QTCT, là sự ghi nhận tích cực từ các bên liên quan, giúp nâng cao uy tín của đơn vị. Mặt khác, hình ảnh các công ty đạt giải thưởng được coi là tấm gương để các công ty khác nỗ lực hoàn thiện mình hơn. Do đó, cần tiếp tục phát huy các hình thức giải tương tự theo hướng quy mô hơn, chuyên nghiệp hơn nhằm vinh danh các đơn vị có chất lượng QTCT và chất lượng báo cáo thường niên tốt.

Thứ hai, các cơ quan Nhà nước có thể phối hợp với các tổ chức nghề nghiệp nhằm tổ chức các diễn đàn, sự kiện, các lớp học để chia sẻ về vấn đề QTCT, qua đó giúp các công ty, đặc biệt là công ty niêm yết gia tăng kiến thức, sự hiểu biết, học hỏi để áp dụng cho chính đơn vị mình. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc các thành viên HĐQT có chuyên môn kế toán tài chính tốt sẽ phát huy hiệu quả giám sát của hệ thống quản trị, nâng cao chất lượng TTKT. Do vậy, ngoài các chủ đề liên quan trực tiếp tới QTCT, các cơ quan, Hiệp hội có thể mở các khóa học chuyên sâu về kế toán, tài chính nhằm giúp các cá nhân có kiến thức chuyên môn tốt hơn, từ đó áp dụng trong điều kiện riêng của đơn vị mình.

Thứ ba, cần nâng cao vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp trong việc gắn kết các doanh nghiệp, chia sẻ các khó khăn, thách thức với các đơn vị trong quá trình xây dựng và vận hành hệ thống QTCT, tạo ra diễn đàn giao lưu để các công ty có thể học hỏi kinh nghiệm từ các chuyên gia và chính các công ty khác trong việc xây dựng và vận hành hệ thống quản trị

Nhìn chung, các khuyến nghị liên quan tới các chính sách, hỗ trợ sẽ giúp các công ty niêm yết nhận thức được tốt hơn vai trò của QTCT cũng như xây dựng các cơ chế, chính sách nhằm tăng cường hiệu quả giám sát, qua đó nâng cao CLTT kế toán, tăng cường uy tín của đơn vị. Trên góc độ quản lý thị trường, sự minh bạch của các công ty niêm yết chính là cơ sở cho sự phát triển bền vững của TTCK.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/01/2024