rừng phòng hộ, chiếm 2,29 % diện tích đất nông nghiệp, tập trung ở phường Trung Đô (54,23 ha và xã Hưng Hoà (54,68 ha . Đất nuôi trồng thuỷ sản có diện tích 391,51 ha, chiếm 8,04% diện tích đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp khác chỉ có 103,87ha, chủ yếu là trang trại chăn nuôi gà và trại nghiên cứu thí nghiệm nông nghiệp (Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Vinh, 2020).
Bảng 4.1. Hiện trạng sử dụng đất của thành phố Vinh năm 2019
Loại đất | Mã | Diện tích (ha) | Cơ cấu (%) | |
Tổng diện tích đất | 10.499,96 | 100 | ||
1 | Nhóm đất nông nghiệp | NNP | 4.764,43 | 45,38 |
1.1 | Đất sản xuất nông nghiệp | SXN | 4.168,75 | 39,70 |
1.1.1 | Đất trồng cây hàng năm | CHN | 3.085,80 | 29,39 |
1.1.2 | Đất trồng cây lâu năm | CLN | 1.082,95 | 10,31 |
1.2 | Đất lâm nghiệp | LNP | 108,91 | 1,04 |
1.2.1 | Đất rừng phòng hộ | RPH | 108,91 | 1,04 |
1.3 | Đất nuôi trồng thuỷ sản | NTS | 382,87 | 3,65 |
1.4 | Đất nông nghiệp khác | NKH | 103,87 | 0,99 |
2 | Nhóm đất phi nông nghiệp | PNN | 5.592,15 | 53,25 |
2.1 | Đất ở | OCT | 1.844,50 | 17,57 |
2.1.1 | Đất ở nông thôn | ONT | 737,55 | 7,02 |
2.1.2 | Đất ở đô thị | ODT | 1.106,95 | 10,54 |
2.2 | Đất chuyên dùng | CDG | 2.959,53 | 28,19 |
2.2.1 | Đất xây dựng trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp | TSC | 303,76 | 2,89 |
2.2.2 | Đất quốc phòng, an ninh | CQP | 518,12 | 4,93 |
2.2.3 | Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp | CSK | 1.751,60 | 16,68 |
2.2.4 | Đất sử dụng vào mục đích công cộng | CCC | 341,62 | 3,25 |
2.3 | Đất cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng | TON | 14,42 | 0,14 |
2.4 | Đất nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng | NTD | 148,51 | 1,41 |
2.5 | Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối, MNCD | SON | 625,19 | 5,95 |
3 | Nhóm đất chưa sử dụng | CSD | 143,38 | 1,37 |
3.1 | Đất bằng chưa sử dụng | BCS | 143,38 | 1,37 |
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc Điểm Điều Kiện Tự Nhiên, Kinh Tế - Xã Hội Thành Phố Vinh, Tỉnh Nghệ An
- Đặc Điểm Điều Kiện Tự Nhiên, Kinh Tế - Xã Hội Thành Phố Vinh, Tỉnh Nghệ An
- Tình Hình Quản Lý, Sử Dụng Đất Và Thực Trạng Quá Trình Đô Thị Hóa Thành Phố Vinh
- Kết Quả Đánh Giá Tác Động Của Đô Thị Hóa Đến Các Nội Dung Quản Lý Nhà Nước Về Đất Đai Tại Thành Phố Vinh
- Kết Quả Phân Tích Hồi Quy Tuyến Tính Về Các Yếu Tố Tác Động Đến Giá Đất Ở Tại Thành Phố Vinh
- Kết Quả Phân Tích Hồi Quy Tuyến Tính Về Các Yếu Tố Tác Động Đến Khiếu Nại Đất Đai Tại Thành Phố Vinh
Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.
Nguồn: UBND thành phố Vinh (2020)
4.2.3. Thực trạng quá trình đô thị hóa thành phố Vinh
Trong suốt 8 thập kỷ tồn tại và phát triển dưới chế độ phong kiến (1804 - 1884 vùng đất Vĩnh Yên và Yên Trường (tức Vinh ngày nay) thực sự trở thành một trung tâm đô thị có nhiều nét tương đồng với các trung tâm đô thị khác ở vương quốc Đại Nam thời bấy giờ. Trong đó, yếu tố “địa chính trị, quân sự” lấn át yếu tố “địa đô thị”. Cả hai yếu tố “thành” và “thị” song song tồn tại, nhưng yếu tố “thành” luôn lấn át yếu tố “thị” mà biểu hiện rõ nét là ở Vinh thời bấy giờ hoàn toàn chưa xuất hiện các phố thị theo đúng nghĩa của nó. Trấn thành, tỉnh thành Nghệ An bị hệ thống làng xã mà cơ sở tồn tại của nó là nền kinh tế tiểu nông truyền thống mang tính tự cung tự cấp, kéo dài từ Quỳnh Lưu ở phía Bắc đến Kỳ Anh ở phía Nam bao quanh. Trên vùng đất này cũng không hình thành các cơ sở sản xuất hàng hóa quy mô lớn tập trung, có thể sản xuất ra nhiều loại hàng hóa có giá trị mà ở các làng quanh thành Nghệ An như: làng Yên Dũng, làng Vang, làng Yên Vĩnh, Yên Giang,… chỉ có một số hộ gia đình làm nghề đan lát, dệt chiếu, bện chổi đót, làm nón lá, làm tơi,… số sản phẩm tạo ra không nhiều, chưa thật sự trở thành những mặt hàng nổi tiếng. Chợ Vinh chỉ là trung tâm buôn bán trao đổi mang nhiều nét truyền thống như bao chợ khác ở nước ta thời bấy giờ. Tại đây, không hình thành một tầng lớp thương nhân theo đúng nghĩa của nó. Do đó, trong suốt 8 thập kỷ tồn tại dưới chế độ phong kiến, đô thị Vinh không có tác động lớn về mặt kinh tế đối với kinh tế Nghệ An, Hà Tĩnh. Vinh chỉ là trung tâm đào tạo, tuyển chọn nhân tài thông qua các kỳ thi hương mà nhà nước tổ chức, góp phần tô đậm truyền thống giáo dục khoa cử của cộng đồng cư dân xứ Nghệ và cũng là nơi để bộ máy quan lại thực thi vương pháp, vương quyền khi họ được triều đình Huế cất nhắc bổ dụng ra làm quan tại đây.
Ngày 12/7/1899, Vua Thành Thái ra Đạo dụ thành lập trung tâm đô thị Vinh cùng với các đô thị khác là Thanh Hóa, Huế, Hội An, Quy Nhơn, Phan Thiết. Ngày 11/3/1914, Vua Duy Tân ra Đạo dụ thành lập trung tâm đô thị Bến Thủy. Ngày 27/8/1917, Vua Khải Định ra Đạo dụ thành lập trung tâm đô thị Trường Thi. Ngày 10/12/1927, Toàn Quyền Đông Dương cho thành lập thành phố Vinh - Bến Thủy trên cơ sở sát nhập 3 trung tâm đô thị là Vinh, Trường Thi, Bến Thủy. Vinh được phân chia thành 10 khu phố, được đặt tên từ phố Đệ Nhất
đến phố Đệ Thập. Với diện tích khoảng 20 km2, dân số khoảng 2 vạn người
(Nguyễn Quang Hồng, 2003).
Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra sắc lệnh số 11, Vinh - Bến Thuỷ (cùng với các thành phố: Nam Định, Huế và Đà Nẵng được “tạm coi như là thị xã”. Đơn vị hành chính thay đổi, từ 10 phố sát nhập lại thành 5 khu phố: từ Khu Phố I đến Khu Phố V, địa giới hành chính hầu như không thay đổi. Năm 1954, hòa bình lập lại trên miền Bắc, thị xã Vinh - Bến Thuỷ được tổ chức lại địa giới hành chính theo 3 khu vực: Khu vực I, Khu Vục II và Khu vực III, với các đơn vị trực thuộc gồm các chòm, dân số thị xã khoảng 9.500 người. Năm 1955, thị xã Vinh - Bến Thuỷ được mở rộng thêm 3 xã của huyện Hưng Nguyên, đưa tổng diện tích thị xã lên 26 km². Đơn vị hành chính được lập lại gồm 5 tiểu khu và 5 xã ngoại thị. Ngày 28/12/1961, Bộ chính trị có Nghị quyết số 31, xây dựng Vinh trở thành một trong 5 khu công nghiệp lớn của miền Bắc và nâng cấp Vinh lên thành phố. Ngày 10/10/1963, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 148/CP thành lập thành phố Vinh. Ngày 26/12/1970, Chính phủ ban hành quyết định cắt các xã Hưng Đông, Hưng Lộc, Hưng Vĩnh, Hưng Hòa, một phần đất ở phía bắc Cầu Đước của xã Hưng Chính
huyện Hưng Nguyên và xã Nghi Phú, huyện Nghi Lộc sát nhập vào thành phố Vinh, diện tích thành phố Vinh được mở rộng thành 67,5 km2. Năm 1974, với sự giúp đỡ của Cộng Hòa dân chủ Đức, Vinh được quy hoạch, xây dựng lại gần như mới hoàn toàn.
Ngày 30/9/2005, Chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển thành phố Vinh trở thành đô thị trung tâm ở Bắc Trung bộ. Đến ngày 5 tháng 9 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1210/QĐTTg, công nhận Vinh là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Nghệ An. Thành phố Vinh có 25 đơn vị hành chính xã, phường, trong đó có 16 phường là: Lê Mao, Lê Lợi, Hà Huy Tập, Đội Cung, Quang Trung, Cửa Nam, Trường Thi, Hồng Sơn, Trung Đô, Bến Thủy, Đông Vĩnh, Hưng Bình, Hưng Phúc, Hưng Dũng, Vinh Tân, Quán Bàu và 9 xã là: Hưng Đông, Hưng Lộc, Hưng Hòa, Hưng Chính, Nghi Phú, Nghi Ân, Nghi Kim, Nghi Liên, Nghi Đức.
Không gian đô thị Vinh đã mở rộng hơn nhiều theo cả hai trục: Đông - Tây và Bắc - Nam, đó là chưa kể thị xã Cửa Lò, thị xã Thái Hòa, thị xã Hoàng Mai được xem như là những đô thị vệ tinh của thành phố Vinh. Theo điều chỉnh quy hoạch chung đến năm 2030, tầm nhìn 2050 của thành phố Vinh được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 52/QĐ-TTg ngày 14/01/2015, ranh giới thành phố Vinh được mở rộng bao gồm cả một phần của huyện Hưng Nguyên, huyện Nghi Lộc và toàn bộ thị xã Cửa Lò, với tổng diện tích là 250 km2.
Sự đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khá đồng bộ trong suốt gần 4 thập kỷ qua đã thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho đô thị Vinh phát triển nhanh chóng bền vững trong xu thế hội nhập vào khu vực và thế giới ngày nay. Ngoài trường Đại học Vinh có tới 35.000 học sinh, sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh theo học hàng năm, trên địa bàn thành phố Vinh còn có trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh, trường Đại học Y Nghệ An, trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Nghệ An, trường Đại học Kinh tế Nghệ An, trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An, trường Cao đẳng Việt - Hàn… Vinh đã và đang từng bước trở thành một trong những trung tâm đào tạo nguồn lực lao động có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao cho cả khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước.
Trải qua hơn 205 năm hình thành và phát triển (1804 - 2020), từ chức năng là một trấn thành của trấn Nghệ An, một đô thị dưới thời quân chủ, Vinh trở thành một thành phố công nghiệp, một đầu mối giao thông (đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển, đường hàng không liên hoàn ,… một trung tâm buôn bán thương mại lớn và là nơi giao lưu của nhiều vùng văn hóa trong cả nước và rộng hơn là cả khu vực. Dấu ấn của đô thị Vinh thời Nguyễn, thị xã Vinh, Bến Thủy, Trường Thi, thành phố Vinh - Bến Thủy thời thuộc Pháp và cả những công trình xây dựng do các chuyên gia, kỹ sư đến từ Cộng hòa dân chủ Đức để lại trong những năm 70 - 80 của thế kỷ trước đã và đang đồng hành trên bước đường phát triển hội nhập của thành phố Vinh ngày hôm nay.
Đến nay, thành phố Vinh được xem là trung tâm vùng Bắc Trung bộ về các lĩnh vực tài chính, thương mại, du lịch, khoa học - công nghệ, công nghệ thông tin, công nghiệp công nghệ cao, y tế, văn hóa, thể thao, giáo dục - đào tạo. Thành phố Vinh có 25 đơn vị hành chính xã, phường, trong đó có 16 phường và 9 xã với diện tích tự nhiên toàn thành phố từ 67,53 km2 tăng lên đến 104,96 km2 (tăng 1,6 lần từ năm 2008 đến 2019 , trong đó diện tích đô thị khoảng 36 km2. Dân số của thành phố năm 2019 là 317.643 người, trong đó dân số đô thị là 216.965 người (chiếm 68,3 tổng số dân và dân số nông thôn là 100.678 người (chiếm 31,7%). Sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, dịch vụ tăng nhanh nên hàng năm thành phố đã đóng góp khoảng 33,52% tổng thu ngân sách của tỉnh Nghệ An; thu nội địa năm 2019 đạt 2.327,8 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng năm 2019 so với năm
2016 đạt 13,55 %, giá trị sản xuất ngành công nghiệp năm 2019 đạt 12124,12 tỷ đồng (UBND thành phố Vinh, 2020).
Thành phố Vinh có tỷ lệ đô thị hóa tăng gần gấp 2 lần (từ 37,21% lên 68,30%), tốc độ đô thị hóa nhanh (102,94 trong giai đoạn 2008-2019 (bảng 4.2). Dân số đô thị tăng chủ yếu là tăng cơ học (65,32%), còn lại là tăng tự nhiên (34,68%). Không gian đô thị Vinh đã mở rộng hơn nhiều theo cả hai trục: Đông - Tây và Bắc - Nam của Thành phố.
Bảng 4.2. Tỷ lệ đô thị hóa và tốc độ đô thị hóa thành phố Vinh giai đoạn 2008-2019
Tổng dân số của thành phố | Tổng dân số của các phường | Tỷ lệ đô thị hóa | Tốc độ đô thị hóa | |
(người) | (người) | (%) | (%) | |
2008 | 287.319 | 106.913 | 37,21 | |
2009 | 303.821 | 212.177 | 69,83 | |
2010 | 305.846 | 208.133 | 68,05 | |
2011 | 309.045 | 209.163 | 67,68 | |
2012 | 311.946 | 209.888 | 67,28 | |
2013 | 313.540 | 210.992 | 67,29 | 102,94 |
2014 | 314.351 | 211.478 | 67,27 | |
2015 | 315.424 | 211.810 | 67,15 | |
2016 | 317.644 | 212.840 | 67,00 | |
2017 | 316.568 | 213.854 | 67,55 | |
2018 | 317.725 | 214.453 | 67,50 | |
2019 | 317.643 | 216.965 | 68,30 |
Nguồn: UBND thành phố Vinh (2020)
Số liệu bảng 4.2 cho thấy, tỷ lệ đô thị hóa thành phố Vinh năm 2009 tăng đột biến so với năm 2008, từ 37,21 năm 2008 tăng lên 69,83 năm 2009. Nguyên nhân là do năm 2008, Chính phủ phê duyệt việc điều chỉnh địa giới hành chính các huyện Hưng Nguyên, Nghi Lộc để mở rộng địa giới hành chính thành phố Vinh; thành lập phường Vinh Tân thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An theo Nghị định số 45/2008/NĐ-CP ngày 17/4/ 2008 (Chính phủ, 2008 . Trên địa bàn thành phố Vinh đã và đang triển khai nhiều dự án xây dựng khu đô thị mới; khu tái định cư; khu, cụm công nghiệp; các công trình công cộng nhằm tạo bộ mặt mới cho đô thị và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Hiện nay, thành phố Vinh nội thị bao gồm 16 phường, diện tích đất đô thị là 3.521,66 ha, chiếm 33,55% tổng diện tích tự nhiên. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển nhanh như giao thông, điện lực, cấp thoát nước, thương mại, bưu chính - viễn thông, dịch vụ, du lịch, nhà
hàng, khách sạn, thể thao - văn hoá... Đối với đất ở, hiện nay thành phố có một số khu tập thể cũ, trong những năm qua những khu nhà này đã và đang được đầu tư cải tạo nên đã cải thiện được một phần về mặt hạ tầng. Bên cạnh đó, thành phố cũng đã xây dựng được một số khu đô thị mới mang dáng dấp của các khu đô thị hiện đại, phù hợp với kiến trúc, cảnh quan đô thị.
4.2.4. Đánh giá chung về tình hình quản lý, sử dụng đất và thực trạng quá trình đô thị hóa thành phố Vinh
4.2.4.1. Thuận lợi
Hoàn thành chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới với 9/9 xã đạt chuẩn, Thành phố được Thủ tướng Chính phủ công nhận “thành phố hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Nông thôn mới”, trước hai năm so với mục tiêu, được tặng thưởng Huân chương Lao động Hạng III. Tập trung mọi nguồn lực để nâng cao các tiêu chí xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn 2018 - 2020. Triển khai kế hoạch mỗi xã một sản phẩm, xây dựng vườn mẫu, khu dân cư kiểu mới, tổ chức cuộc thi xã nông thôn mới đẹp, xây dựng xã Nghi Liên thành xã nông thôn mới kiểu mẫu. Tính đến hết năm 2019, tổng kinh phí huy động thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố hơn 4.014 tỷ đồng
Thực hiện quản lý và phát triển đô thị theo đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đến năm 2030, tầm nhìn 2050. Triển khai điều chỉnh quy hoạch phân khu các phường, xã. Tổ chức công bố Điều chỉnh quy hoạch chung thành phố, các quy hoạch phân khu chức năng, cắm mốc chỉ giới quy hoạch đã phê duyệt để quản lý sử dụng và cấp phép xây dựng đúng quy định. Tích cực phối hợp các Sở, ngành trong việc đề xuất, tham mưu UBND Tỉnh việc xử lý các trường hợp vi phạm, không tuân thủ quy hoạch, các dự án treo, chậm triển khai. Tham mưu đề xuất UBND tỉnh tổ chức các đợt kiểm tra việc triển khai thực hiện các dự án của các nhà đầu tư trên địa bàn.
Thực hiện tốt công tác quản lý hạ tầng kỹ thuật, công tác chỉnh trang đô thị. Di dời, thay thế các cột điện trung thế, hạ thế trên các tuyến đường. Sửa chữa, lắp đặt hệ thống điện trang trí trên một số tuyến đường, cải tạo hệ thống cây xanh, vôn va,...; chủ động ứng phó trước mùa mưa bão; khảo sát, duy tu sửa chữa kịp thời các tuyến đường, đèn tín hiệu giao thông, đèn trang trí, vỉa hè, tấm đan mương thoát nước hư hỏng. Cải tạo nâng cấp, hạ ngầm hệ thống điện lưới phù hợp với quy hoạch phát triển điện lực tỉnh Nghệ An; bó cáp điện trên không một số tuyến đường. Từng bước cập nhật, hoàn thiện việc quản lý mạng lưới hạ tầng
kỹ thuật trên hệ thống phần mềm tin học nhằm thực hiện đầu tư, cải tạo, bảo trì, bảo dưỡng hệ thống một cách khoa học. Tích cực thực hiện giải tỏa hành lang an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, vỉa hè trên địa bàn.
Việc tổ chức thực hiện và hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai được kịp thời. Hoàn thành điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dụng đất hàng năm làm cơ sở cho việc thu hồi đất, giao thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn. Cơ sở dữ liệu về đất đai, phần mềm quản lý đất đai được xây dựng và áp dụng đồng bộ. Tăng cường công tác thanh kiểm tra việc sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn; việc thực hiện pháp luật về đất đai tại các phường, xã cơ bản được thực hiện nghiêm túc; phối hợp với các ngành cấp tỉnh xử lý thu hồi đất của các tổ chức vi phạm chính sách, pháp luật về đất đai. Chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý đất đai; đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quan tâm thực hiện việc giao đất chính sách; tích cực giải quyết nhà ở tập thể cũ.
Quá trình đô thị hóa ở thành phố Vinh diễn ra khá nhanh, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp nhưng nhờ chuyển dịch hướng cây trồng, vật nuôi, áp dụng các mô hình sản xuất nên giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng từ 473 tỷ đồng năm 2015 lên 527 tỷ đồng năm 2019, sản lượng lương thực đạt 13.255,6 tấn năm 2019, sản lượng thủy hải sản đạt 1.070 tấn, diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 546,5ha. Thành phố Vinh đã đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi hướng đến nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chú trọng xây dựng thương hiệu sản phẩm; quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp. Chủ động trong công tác phòng chống dịch bệnh, phòng chống ngập úng, phòng chống hạn. Thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ, phát triển rừng. Triển khai thực hiện các mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị và ứng dụng công nghệ cao bước đầu có hiệu quả.
4.2.4.2. Khó khăn, hạn chế
Công tác quản lý quy hoạch chưa tốt, trật tự đô thị, vệ sinh môi trường bộc lộ nhiều hạn chế chậm được khắc phục. Tiến độ quy hoạch phân khu phường, xã chậm. Quản lý kiến trúc đô thị chưa được chú trọng. Chưa tạo được chuyển biến bền vững trong việc thực hiện Chỉ thị 05 của Ban Thường vụ Thành uỷ: Tình trạng lấn chiếm vỉa hè, lòng lề đường, đổ rác thải xây dựng không đúng nơi quy định chưa được xử lý triệt để. Một số vấn đề đặt ra trong chỉnh trang đô thị chưa được giải quyết như: Hệ thống đường dây trên cao, kiến trúc đặc trưng đô thị, chất lượng
nguồn nước, xây dựng lấn chiếm đất đai trái phép, bãi đậu xe,… Quy hoạch xây dựng nghĩa trang tập trung, thực hiện đề án nhà ở tập thể trên địa bàn còn chậm. Hạ tầng kỹ thuật đô thị được đầu tư chưa đồng bộ, nhất là về giao thống chưa tương xứng với vai trò giao thông đầu mối, cửa ngõ ra vào của khu vực; ùn tắc giao thông cục bộ ngày càng tăng;. tình trạng ngập úng cục bộ chưa được khắc phục.
Việc quản lý đất đai ở một số cơ sở chưa chặt chẽ, vẫn còn tình trạng sử dụng đất công sai mục đích ở một số phường, xã. Giải quyết đất ở cho đối tượng chính sách chưa đáp ứng yêu cầu của nhân dân. Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư còn gặp khó khăn liên quan đến quy định về mức bồi thường, hỗ trợ đát nông nghiệp giữa Luật đất đai 2003 và Luật đất đai 2013 khác nhau; việc xác định đơn giá bồi thường còn thấp...
Chất lượng một số công trình xây dựng còn hạn chế, tiến độ một số dự án quan trọng như đường giao thông chính còn kéo dài. Công tác GPMB còn nhiều vướng mắc, không đảm bảo tiến độ, ảnh hưởng tới tiến độ đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm như dự án xây dựng đường nối Vinh - Cửa Lò (giai đoạn 1), Đường 72 m (từ ngã 3 Quán Bàu đến Đại lộ xô viết Nghệ Tĩnh ; đường Lê Ninh, đường Lê Mao… Đầu tư xây dựng các khu tái định cư để thực hiện các dự án lớn chưa đáp ứng yêu cầu.
Thực hiện nếp sống văn hoá đô thị chưa có nét đổi mới, thiếu các giải pháp thực hiện hiệu quả, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao, chưa đồng bộ xây dựng thành phố Vinh thành trung tâm vùng Bắc Trung bộ về văn hóa, thể dục, thể thao..Việc ứng dụng khoa học - công nghệ chưa có tính đột phá để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ còn thấp, đóng góp của khoa học - công nghệ cho phát triển kinh tế - xã hội còn mang tính chất đơn giản, nhỏ lẻ.
4.3. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN VIỆC QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT VÀ ĐỜI SỐNG, VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI DÂN THÀNH PHỐ VINH
4.3.1. Đánh giá tác động của đô thị hóa đến quản lý đất đai thành phố Vinh
4.3.1.1. Khái quát về tác động của đô thị hóa đến quản lý đất đai
Kết quả xử lý số liệu điều tra cho thấy, có 15 nội dung chịu tác động của quá trình đô thị hóa thì quản lý tài chính về đất đai và giá đất chịu tác động lớn nhất của quá trình đô thị hóa với điểm đánh giá cao nhất 912 điểm, tiếp theo là giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử