PHẦN 4. KẾT QỦA VÀ THẢO LUẬN
4.1. ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN
4.1.1. Điều kiện tự nhiên thành phố Vinh
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Thành phố Vinh là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của tỉnh Nghệ An, là một trong hai đô thị lớn nhất vùng Bắc Trung Bộ có diện tích tự nhiên là 104,96 km2 bao gồm 16 phường và 9 xã. Trung tâm Thành phố cách thủ đô Hà Nội 295 km (về phía Bắc) và cách Huế 350 km; Đà Nẵng 472 km; Thành phố Hồ Chí Minh 1.447 km về phía Nam. Vị trí địa lý (hình 4.1).
Hình 4.1. Sơ đồ vị trí thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Nguồn: UNBD thành phố Vinh (2019a)
Có thể bạn quan tâm!
- Tác Động Của Đô Thị Hóa Đến Quản Lý, Sử Dụng Đất Và Đời Sống Việc Làm Tại Trung Quốc
- Một Số Nghiên Cứu Về Tác Động Của Đô Thị Hóa Đến Tình Hình Quản Lý, Sử Dụng Đất; Đời Sống Và Việc Làm
- Đặc Điểm Điều Kiện Tự Nhiên, Kinh Tế - Xã Hội Thành Phố Vinh, Tỉnh Nghệ An
- Tình Hình Quản Lý, Sử Dụng Đất Và Thực Trạng Quá Trình Đô Thị Hóa Thành Phố Vinh
- Hiện Trạng Sử Dụng Đất Của Thành Phố Vinh Năm 2019
- Kết Quả Đánh Giá Tác Động Của Đô Thị Hóa Đến Các Nội Dung Quản Lý Nhà Nước Về Đất Đai Tại Thành Phố Vinh
Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.
- Phía Bắc và phía Đông giáp huyện Nghi Lộc;
- Phía Tây giáp huyện Hưng Nguyên;
- Phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh.
Thành phố Vinh nằm ở trung độ cả nước trên trục giao thông quan trọng xuyên Bắc - Nam, giữa hai Thành phố: Hà Nội và Hồ Chí Minh là hai trung tâm lớn của hai vùng kinh tế phát triển nhất trong cả nước. Từ Vinh có thể đi đến Lào (qua ba cửa khẩu: Cầu Treo, Thanh Thuỷ và Nậm Cắn) và các tỉnh vùng Đông Bắc của Thái Lan. Đến Vinh cũng xem như đã đến thị xã Cửa Lò (15 km); Kim Liên - quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh (12 km ; Tiên Điền, Nghi Xuân - quê hương đại thi hào Nguyễn Du (10 km) cùng với các địa danh nổi tiếng khác ở quanh vùng.
Vị trí địa lý của thành phố Vinh và hệ thống giao thông đối nội, đối ngoại cũng như các hạng mục hạ tầng kinh tế và xã hội khác ngày càng được hoàn thiện đang và sẽ là những điều kiện thuận lợi để thành phố có thể tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước để phát triển một nền sản xuất hàng hoá có sức cạnh tranh cao với những ngành mũi nhọn đặc thù, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng liên kết kinh tế trong nước và thế giới, đưa nền kinh tế của Thành phố nhanh chóng hòa nhập theo xu thế phát triển chung.
4.1.1.2. Địa hình, địa chất
Địa hình Thành phố Vinh được kiến tạo bởi hai nguồn phù sa, đó là phù sa sông Lam và phù sa của Biển Đông. Sau này sông Lam đổi dòng chảy về mạn Rú Rum, thì miền đất này còn nhiều chỗ trũng và được phù sa bồi lấp dần. Địa hình bằng phằng và cao ráo nhưng không đơn điệu, có núi Dũng Quyết hùng vĩ và dòng sông Lam thơ mộng bao quanh, tạo nên cảnh quan thiên nhiên của thành phố rất hài hòa và khoáng đạt.
4.1.1.3. Khí hậu
Thành phố Vinh nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, cùng với điều kiện địa lý tự nhiên, thành phố Vinh mang tính chất tiểu vùng khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều. Vinh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa rõ rệt và có sự biến động lớn từ mùa này sang mùa khác.
Nhiệt độ trung bình 24°C, nhiệt độ cao tuyệt đối 42,1°C, nhiệt độ thấp tuyệt đối 4°C. Độ ẩm trung bình 85-90 . Số giờ nắng trung bình 1.696 giờ. Năng lượng bức xạ dồi dào, trung bình 12 tỷ Keal/ha năm, lượng mưa trung bình hàng năm 2.000mm thích hợp cho các loại cây trồng phát triển.
Có hai mùa gió đặc trưng: Gió Tây Nam - gió khô xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 9 và gió Đông Bắc - mang theo mưa phùn lạnh ẩm ướt kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau.
4.1.1.4. Thuỷ văn
Thành phố Vinh là địa phương có lượng mưa lớn, cung cấp lượng nước lớn cho các suối, hồ. Hệ thống sông ngòi bao quanh phía Tây Đông và phía Nam thành phố là điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế với các huyện trong tỉnh. Sông Lam có độ sâu 2 - 4m có cảng Bến Thuỷ là một cảng hàng hoá lâu đời của khu vực Bắc miền Trung có khả năng cho tàu dưới 2.000 tấn ra vào thuận lợi. Trong tương lai, khi thị xã Cửa Lò sát nhập vào thành phố Vinh, thì cảng nước sâu Cửa Lò với công suất 3 triệu tấn/năm (sẽ được nâng lên 5 triệu tấn/năm vào năm 2015; 17 triệu tấn/năm vào năm 2020 là một cảng lớn trong hệ thống cảng biển quốc gia sẽ đóng góp cho sự phát triển kinh tế của thành phố trong việc giao thương bằng đường biển
4.1.1.5. Các nguồn tài nguyên
a. Tài nguyên đất
Tài nguyên đất của thành phố Vinh có 3 nhóm đất chính, gồm:
Nhóm đất cát biển: Đất cát có diện tích 3.345 ha, phân bố tập trung ở xã Hưng Lộc, Nghi Phú, Nghi Liên, Nghi Đức, Nghi Ân. Đất có thành phần cơ giới cấp hạt thô, tỷ lệ cát thường 80% - 90%, dung tích hấp thu thấp. Hàm lượng các chất dinh dưỡng như mùn, đạm, lân đều nghèo. Kali tổng số trung bình ở tất cả các tầng đất, Kali dễ tiêu lớp đất mặt trung bình (16,2mg/100g đất), xuống các tầng dưới Kali dễ tiêu ở mức độ nghèo. Nhìn chung đất cát biển có độ phì nhiêu thấp, song lại thích hợp cho việc trồng hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày như rau, khoai, lạc, đỗ, vừng, dâu, tằm,...
Nhóm đất mặn:Đất mặn hình thành ở địa hình vàn, vàn thấp, vẫn bị ảnh hưởng của nguồn nước. Đất mặn có 2 nhóm đất phụ (Đất mặn trung bình, đất mặn ít) có diện tích khoảng 1.252 ha, phân bố chủ yếu ở xã Hưng Hòa và một phần ở Hưng Dũng. Đất có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến thịt nặng. Đất có phản ứng ít chua (pHKCl> 5,0 hàm lượng cation kiềm trao đổi và dung tích hấp thu CEC trung bình. Hàm lượng mùn, đạm lân tổng số tầng mặt trung bình.
Nhóm đất phù sa: Đất phù sa có diện tích 4.367 ha, chiếm 48,50% diện tích tự nhiên của tập trung chủ yếu ở xã Hưng Đông, Nghi Liên, Nghi Kim, phường
Vinh Tân, phường Đông Vĩnh. Đất có thành phần cơ giới thịt nặng, phản ứng ít chua, hàm lượng mùn tổng số tầng mặt trung bình khá, các tầng dưới thấp; đạm tổng số tầng khá, các tầng dưới nghèo. Lân tổng số ở các tầng trung bình thấp, kali tổng số từ nghèo đến khá; lân và kali dễ tiêu đều ở mức độ nghèo.
b. Tài nguyên nước
Trên địa bàn Thành phố có các sông chính như: sông Lam, sông Cửa Tiền, trong đó Sông Lam (sông Cả) là con sông lớn nhất tỉnh Nghệ An bắt nguồn từ thượng Lào, đoạn chảy qua Thành phố có chiều dài trên 5 km thuộc phần hạ lưu, lòng sông rộng, tốc độ dòng chảy hiền hòa hơn so với vùng thượng lưu. Sông Cửa Tiền (sông Vinh và sông Đừng là hai sông nhỏ, lòng sông hẹp, lượng nước không lớn và chịu ảnh hưởng trực tiếp thủy chế của sông Lam.
Do nằm ở vùng hạ lưu nên sông ở Vinh chịu ảnh hưởng của mưa lũ ở thượng nguồn và chế độ thuỷ triều. Vào mùa mưa nước từ thượng nguồn dồn về làm mực nước sông lên cao, dòng sông chảy xiết, đôi khi gặp phải bão, áp thấp nhiệt đới gây nên tình trạng lụt lội. Ngoài ra, Thành phố có hệ thống ao, hồ tự nhiên và nhân tạo khá phong phú, như hồ Cửa Nam, hồ Vinh Tân, hồ Trung Tâm, hồ Goong và các ao, hồ xen kẽ trong các khu dân cư.
c. Tài nguyên nhân văn
Ngay từ thời sơ khai của đất nước, thành phố Vinh đã là địa bàn thích hợp cho sự dừng chân và tụ cư của con người. Trải qua biến thiên của lịch sử, vị trí của thành phố ngày càng quan trọng hơn, vì nó nằm trên con đường thiên lý xuyên Việt trong quá trình mở mang bờ cõi của tổ tiên. Cuối năm 1788, Hoàng đế Quang Trung đã chọn Vinh để xây kinh đô mới và Vinh đã trở thành Phượng Hoàng Trung Đô.
Dưới thời thuộc Pháp, người Pháp đã nhận ra vị trí đắc địa của thành phố Vinh và xây dựng Thành phố thành một trong những đô thị công nghiệp vào loại lớn trong cả nước. Cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thể kỷ trước, thành phố Vinh được biết đến như một đô thị với những nhà máy, xí nghiệp, bến cảng, nhà băng... nổi tiếng của người Pháp, Hoa Kiều, Ấn Kiều... Đó cũng là cái nôi của phong trào yêu nước và cách mạng. Năm 1930 - 1931 cao trào cách mạng Xô Viết - Nghệ Tĩnh diễn ra tại đây. Không chỉ nổi tiếng là Thành phố giàu truyền thống lịch sử và cách mạng, thành phố Vinh còn được biết đến là một Thành phố công nghiệp và thương mại. Hơn nữa thành phố Vinh là nơi hội tụ tinh hoa văn hoá xứ Nghệ và sớm hình thành những giá trị của văn hoá đô thị.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới thành phố Vinh đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội, xây dựng hạ tầng và quản lý đô thị. Thành phố Vinh là trung tâm kinh tế - xã hội, văn hóa và khoa học kỹ thuật của tỉnh, đầu mối của nhiều tuyến đường giao thông đối ngoại đi các huyện và liên tỉnh, liên vùng. Vì vậy, tài nguyên du lịch của Thành phố khá đa dạng như khu du lịch Lâm Viên - núi Quyết, du lịch sông Lam, tiềm năng du lịch nhân văn cũng rất phong phú, ít địa phương nào có thể sánh bằng, với nhiều di tích lịch sử - văn hoá như Đền Hồng Sơn với 3 kỳ lễ hội, Đền thờ vua Quang Trung, Núi Quyết, chùa Cần Linh, cồn Mô, thành cổ Vinh... Đây còn là quê hương của các điệu hò ví dặm, hát phường vải.v.v.. Các trung tâm du lịch văn hóa hiện đại như công viên trung tâm thành phố, công viên Nguyễn Tất Thành.
4.1.1.6. Thực trạng môi trường thành phố Vinh dưới tác động của đô thi hóa
Môi trường nước: Qua kết quả quan trắc các điểm đo tại phường Quang Trung, xã Hưng Lộc, xã Hưng Hòa trong những năm gần đây (áp dụng tiêu chuẩn TCVN 5944 - 1995) cho thấy chất lượng nước dưới đất ở thành phố Vinh chưa có biểu hiện của sự ô nhiễm. Tại tất cả các điểm quan trắc, giá trị các chỉ tiêu thấp hơn so với tiêu chuẩn cho phép; ngoại trừ điểm lấy mẫu tại xã Hưng Hòa, Hưng Lộc có hàm lượng cặn, Mn, Fe, vượt tiêu chuẩn cho phép.
Nước mặt, Sông Lam là nơi tiếp nhận lượng lớn nước thải Thành phố đổ vào qua hàng loạt các công trình tiêu nước. Qua kết quả quan trắc chuỗi số liệu nước sông Lam tại bara Bến Thủy cho thấy nguồn nước đã có dấu hiệu ô nhiễm các chất hữu cơ, vi sinh vật: các thông số NH4+, Coliform, BOD của các đợt quan trắc thường vượt TCVN 5942 - 1995 từ 2 - 4 lần đặc biệt là vào mùa mưa.
Nước thải, kết quả quan trắc nước thải tại kênh N3 (kênh thoát nước thải sinh hoạt, sản xuất tại khu vực phường Bến Thủy đổ ra sông Lam cho thấy nước đã bị ô nhiếm các chất hữu cơ, giá trị các thông số NH4+, Coliform, BOD, S2- thường vượt TCVN 5945 - 1995. Đây cũng chính là tình trạng ô nhiễm chung tại nhiều kênh, mương thoát nước thải của Thành phố.
Môi trường không khí: Nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí chủ yếu của Thành phố là do hoạt động của các cơ sở sản xuất công nghiệp, khu công nghiệp, khu tiểu thủ công nghiệp, phương tiện giao thông phát sinh khí thải (SO2, NOx, CO2, CO, CXHy), bụi và tiếng ồn. Nhìn chung, giá trị các thông số đều thấp hơn TCVN 5937-1995, riêng tại điểm ngã tư chợ Vinh nồng độ bụi,
tiếng ồn thường xuyên vượt TCCP. Nồng độ bụi trong khu vực (dọc đường giao thông, chợ, làm đường, công trình xây dựng, gần các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng) có giá trị 0,19 - 0,36 mg/m3 (trung bình trong 24h) gấp 1-1,8 lần tiêu chuẩn cho phép; còn lại chưa bị ô nhiễm bụi, khí thải hay tiếng ồn
Nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường của Thành phố đó là quá trình đô thị hoá, phát triển kinh tế và sự gia tăng nhanh dân số... tạo ra nguồn rác thải, nước thải chưa qua xử lý; thải xuống sông, kênh rạch làm ô nhiễm nguồn nước và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống dân cư.
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội thành phố Vinh
4.1.2.1. Điều kiện kinh tế
Cơ cấu kinh tế thành phố Vinh giai đoạn 2008-2019 có sự chuyển dịch tích cực và theo hướng phát triển dịch vụ - thương mại, giảm dần tỷ trọng của Nông - Lâm - Ngư nghiệp. Năm 2014 trong bối cảnh suy giảm kinh tế chung nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,6 . Đến năm 2019, giá trị sản xuất đạt 33.752 tỷ đồng, đạt 101,0 kế hoạch năm, tăng 9,7 so với cùng kỳ. Giá trị gia tăng đạt 16.323,4 tỷ đồng, đạt 100,8 kế hoạch năm, tăng 8,6 so với cùng kỳ. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 11.987 tỷ đồng, đạt 100,4 kế hoạch năm, tăng 18,1 so với năm trước.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng ngành dịch vụ - thương mại và giảm dần tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư nghiệp. Công nghiệp - xây dựng từ 40,20 năm 2013 giảm còn 34,05 năm 2015 và giảm xuống 32,77 năm 2019, dịch vụ - thương mại từ 57,90 năm 2013 tăng lên 64,19 năm 2015 và lên đến 65,57 năm 2019, nông nghiệp từ 1,90 năm 2013 giảm còn 1,76 năm 2015 và đến năm 2019 giảm xuống 1,66%.
Khu vực kinh tế nông nghiệp: Tổng giá trị sản xuất Nông lâm nghiệp - thủy sản năm 2015 đạt 473 tỷ đồng, năm 2019 đạt 527 tỷ đồng. Năm 2019, giá trị sản phẩm trên 1 ha canh tác đạt 85,09 triệu đồng/năm. Trên địa bàn thành phố tập trung một số cây trồng chủ lực như Cây lúa: Năm 2015, tổng diện tích lúa cả năm
3.062 ha (giảm 171 ha so năm 2010 . Năm 2019, tổng diện tích còn 2.923 ha (giảm 310 ha so với năm 2010 và sản lượng 13.870 tấn. Cây ngô, năm 2015, tổng diện tích cả năm là 459 ha (giảm 128 ha so với năm 2010 . Năm 2019 tăng lên, tổng diện tích cả năm đạt 508 ha và sản lượng 1833 tấn; cây ăn quả, tiếp tục
củng cố và cải tạo, phục tráng các loại cây ăn quả có giá trị; năm 2019 diện tích cây ăn quả là 78 ha (giảm 8 ha so với năm 2008 ; rau, đậu các loại, diện tích rau đậu các loại đến năm 2019 đạt 981 ha. Năm 2019, thành phố đã xây dựng và quy hoạch vùng trồng rau an toàn tập trung tại xã Hưng Đông, Nghi Kim, Nghi Liên, Nghi Ân, tuy nhiên đến nay các xã mới đang thực hiện xây dựng mô hình trồng rau an toàn, chưa được phát triển rộng theo quy hoạch; cây hoa, diện tích trồng hoa năm 2019 đạt 196 ha, tuy nhiên mới đáp ứng được một phần nhu cầu.
Khu vực kinh tế công nghiệp: Giá trị sản xuất ngành công nghiệp năm 2019 đạt 12124,12 tỷ đồng. Lĩnh vực tiểu công nghiệp và làng nghề được quan tâm, nhiều cơ sở làng nghề, chế biến nông sản, cơ khí, mộc dân dụng được hình thành, đóng góp quan trọng vào phát triển, tạo việc làm mới và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động của thành phố và tỉnh. Theo kết quả điều tra Doanh nghiệp đến cuối năm 2019 trên địa bàn thành phố đã có hơn 4500 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã. Đối với công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, duy trì và phát triển các cơ sở khai thác, dịch vụ cát, sỏi. Đối với công nghiệp chế biến nông, lâm sản, duy trì sản xuất, ổn định các nhà máy đã được đầu tư xây dựng như: chế biến gỗ và sản xuất giấy, chế biến chè. Tuy nhiên, hầu hết các cơ sở chế biến trên địa bàn còn nhỏ lẻ. Đến nay chỉ có công Ty TNHH Một Thành Viên Đầu Tư Phát Triển Chè Nghệ An đủ điều kiện xuất khẩu chè. Các sản phẩm như các loại bánh, kem hộp và nước giải khát còn thủ công, chưa phát triển hoặc quy mô nhỏ. Tập trung phối hợp với các ngành, các cấp quan tâm tháo gỡ khó khăn, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển, hầu hết các sản phẩm công nghiệp đều tăng so với cùng kỳ; trong đó tập trung đầu tư một số sản phẩm: cơ khí, điện tử, điện lạnh, may mặc, sản phẩm vật liệu xây dựng chất lượng cao. Giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng đạt 20.195 tỷ đồng, đạt 100 kế hoạch, tăng 10,2 so với cùng kỳ. Phối hợp với Viện Năng suất Việt Nam tổ chức hội thảo học tập các giải pháp nâng cao năng suất sản xuất cho 25 doanh nghiệp sản xuất tại các cụm công nghiệp Hưng Lộc và Nghi Phú.
Giá trị sản xuất xây dựng trên địa bàn có mức tăng trưởng tăng 11,1 so với cùng kỳ. Huy động nguồn lực đầu tư tăng khá, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 14.367 tỷ đồng, tăng 11,9 cùng kỳ. Nhiều dự án công nghiệp trên địa bàn được đầu tư xây dựng.
4.1.2.2. Dân số, lao động
Quy mô dân số toàn thành phố năm 2019 có 317.643 người, mật độ dân cư trung bình 3.025 người/km2, phân bố tập trung ở các phường trung tâm (Hưng Bình, Trường Thi, Trung Đô, Bến Thủy, Hồng Sơn, Lê Lợi, Lê Mao, Hà Huy Tập, Lê Lợi ). Tốc độ tăng dân số tự nhiên bình quân 0,96 /năm giai đoạn 2008
- 2019; dân số đô thị là 216.965 người (chiếm 68,3 tổng số dân và dân số nông thôn là 100.678 người (chiếm 31,7%).
Số lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân năm 2019 là 183.808 người (chiếm 56,94% số người trong độ tuổi lao động , trong đó lao động nữ là 93.641 người, chiếm 50,95% tổng số lao động. Số người trong độ tuổi lao động chuyển đến là 5.784 người, số người trong độ tuổi lao động chuyển đi là
5.220 người. Lao động nông nghiệp biến động tăng giai đoạn từ 2005 (11.740 người đến 2008 (25.102 người) do sát nhập 5 xã vào thành phố, sau đó giảm nhẹ, năm 2010 có 22.409 người, đến năm 2019 có 24.432 người.
4.1.3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thành phố Vinh
4.1.3.1. Thuận lợi
Thực hiện các chỉ đạo của Trung ương và tỉnh về phát triển kinh tế, thành phố Vinh đã triển khai nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội vì sự phát triển bền vững; thực hiện cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, ngày càng khẳng định vị trí trung tâm vùng ở một số lĩnh vực.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2008-2019 tăng ở mức khá, ước đạt 8,2%, giá trị gia tăng bình quân đầu người đạt 95,95 triệu đồng/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, phù hợp vị thế của đô thị: Tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 72,34%; công nghiệp - xây dựng giảm từ 24,80%; nông - lâm - ngư nghiệp giảm xuống 1,35 năm 2019.
4.1.3.2. Khó khăn
Tốc độ tăng trưởng kinh tế, tổng mức đầu tư toàn xã hội, giá trị gia tăng đầu người, thu ngân sách không đạt kế hoạch đề ra. Kinh tế tăng trưởng chưa đột phá. Huy động nguồn lực cho đầu tư còn khó khăn trước yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng trong khi vốn đầu tư công ngày càng thắt chặt, thị trường bất động sản phát triển chưa thực sự bền vững.