Mối Quan Hệ Giữa Quá Trình Đô Thị Hoá Và Quá Trình Công Nghiệp


Như vậy, ĐTH phải vừa thúc đẩy sự phát triển kinh tế, vừa phải đảm bảo môi trường tự nhiên, xã hội trong lành, sự công bằng và tiến bộ xã hội.

Tuy rằng tăng trưởng kinh tế là yếu tố cần thiết và quan trọng bậc nhất của quá trình ĐTH song nó vẫn chỉ là một nhân tố, một phương tiện hơn là một mục tiêu tối thượng. Mục tiêu của ĐTH là phải không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của con người, tức là phát triển đô thị lấy con người làm trọng tâm.

1.1.3.4. Mối quan hệ giữa quá trình đô thị hoá và quá trình công nghiệp

hoá

ĐTH là một quá trình song song với sự phát triển CNH và cách mạng

khoa học kỹ thuật. Quá trình ĐTH phản ánh tiến trình CNH, HĐH trong nền kinh tế thị trường. Không ai phủ nhận rằng một quốc gia được coi là CNH thành công lại không có tỷ lệ cư dân đô thị ngày càng chiếm vị trí áp đảo so với cư dân nông thôn. Đó cũng là lý do mà kinh tế học phát triển đã coi sự gia tăng tỷ lệ cư dân đô thị như một trong những chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tình trạng “có phát triển” của nền kinh tế chậm phát triển đang tiến hành CNH hiện nay. ĐTH trước hết là hệ quả trực tiếp của quá trình CNH và sau này là hệ quả của quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng HĐH: tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu và khối lượng GDP.

Đồng thời, trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, ĐTH giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, đảm bảo an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường. ĐTH xúc tiến tối đa CNH

- HĐH đất nước. Sự nghiệp CNH - HĐH muốn thực hiện thành công cần phải chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp với kỹ thuật cao, thay đổi cơ cấu lao động. Trước hết có sự tập trung


cao các điểm dân cư, kết hợp với xây dựng đồng bộ và khoa học các cơ quan và các xí nghiệp trung tâm... Quá trình này là bước chuẩn bị lực lượng ban đầu cho CNH - HĐH đất nước. Khi đó máy móc hiện đại được đưa vào sản xuất nhiều hơn kéo theo việc nâng cao trình độ tay nghề công nhân, đồng thời nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý. ĐTH sẽ đánh dấu giai đoạn phát triển mới của tiến trình CNH, trong đó, công nghiệp và dịch vụ trở thành lĩnh vực chủ đạo của nền kinh tế, không chỉ xét về phương diện đóng góp tỷ trọng trong GDP mà còn cả về phương diện phân bố nguồn lao động xã hội.

1.1.3.5 Tác động của đô thị hoá

ĐTH là một quá trình đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra một cách phổ biến trên thế giới. ĐTH từng bước đưa con người tiếp cận cuộc sống văn minh, đồng thời cũng đặt ra không ít vấn đề tiêu cực, khó khăn - những vấn đề ảnh hưởng xấu đối với quá trình ĐTH một cách bền vững.

* Mặt tích cực:

Một là, ĐTH thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sản xuất hàng hóa và dịch vụ thường đạt hiệu quả cao tại những đô thị lớn - nơi có quy mô mật độ dân số tương đối lớn với nguồn lao động dồi dào, có quy mô hoạt động kinh tế đủ lớn do các doanh nghiệp tập trung đông, có hệ thống phân phối rộng khắp trên một không gian đô thị nhất định. Đồng thời khi kinh tế của các đô thị lớn đạt tới độ tăng trưởng cao thì nó sẽ gây ra hiệu ứng lan toả kích thích mạnh tới tăng trưởng kinh tế của cả nước.

Hai là, ĐTH đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Trong quá trình ĐTH, cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng của khu vực nông nghiệp và gia tăng nhanh tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với sản xuất nông nghiệp nói riêng, ĐTH góp phần làm thay đổi về cơ cấu diện tích gieo trồng và cơ cấu giá trị sản xuất. Các loại cây có giá trị kinh tế thấp, sử dụng nhiều lao động đang có xu hướng


giảm dần diện tích. Các loại cây cần ít lao động hơn và cho giá trị kinh tế cao hơn đang được tăng dần diện tích canh tác. Trong tổng giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp thì xu hướng chung là giảm dần tỷ trọng của ngành trồng trọt và tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi.

Ba là, cải tạo kết cấu hạ tầng. Xu hướng ĐTH tạo ra sự tập trung sản xuất công nghiệp và thương mại, đòi hỏi phải tập trung dân cư, khoa học, văn hóa và thông tin. Những điều kiện đáp ứng nhu cầu đó là sự phát triển kết cấu hạ tầng, nhà ở, các dịch vụ phục vụ cho sản xuất và đời sống dân cư. Do đó mà hệ thống giao thông vận tải, năng lượng, bưu chính viễn thông và cấp thoát nước cũng sẽ được cải tiến về quy mô và chất lượng.

Ở nông thôn, việc cải tạo kết cấu hạ tầng đang được thực hiện với chủ trương “điện, đường, trường, trạm” tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và nâng cao đời sống của người nông dân.

Bốn là, ĐTH nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ. Các đô thị ngày càng áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật và kỹ năng quản lý tổ chức sản xuất hiện đại, làm tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Trong sản xuất nông nghiệp, quá trình ĐTH cung cấp những cơ sở kỹ thuật cần thiết cho người nông dân như thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa để làm tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá có chất lượng tốt, đảm bảo an toàn lương thực, đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế biến và thị trường trong ngoài nước.

Năm là, ĐTH góp phần cải thiện đời sống của dân cư đô thị và các vùng lân cận. Nhờ duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà các đô thị có thể tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới cho người dân, góp phần quan trọng trong việc nâng cao thu nhập cho họ. Khi mức thu nhập bình quân người/ tháng tăng lên thì nhu cầu chi tiêu đời sống của dân cư cũng tăng nhằm thỏa mãn tốt


hơn nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Điều đó cho thấy ĐTH làm mức sống của dân cư được cải thiện đáng kể, góp phần vào việc thực hiện xóa đói giảm nghèo.

Sáu là, ĐTH cũng đem lại một số tiến bộ về mặt xã hội đó là: nâng tuổi thọ trung bình, giảm tỷ lệ tử vong của trẻ em, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng, tăng tỷ lệ dân cư dùng nước sạch, phát triển giáo dục, văn hóa,...

* Mặt tiêu cực:

Bên cạnh những mặt mạnh của ĐTH như trên thì ĐTH cũng kéo theo hàng loạt vấn đề tiêu cực khác, đó là:

Thứ nhất, thu hẹp diện tích đất nông nghiệp. Quá trình ĐTH nhanh đã làm cho nhu cầu về sử dụng đất chuyên dùng xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và đất đô thị tăng lên rất nhanh. Điều này dẫn đến tình trạng nuốt chửng những diện tích đất nông nghiệp vốn rất cần thiết cho một đô thị như: sản xuất lương thực thực phẩm, tạo mảng không gian xanh có vai trò “giải độc” cho môi trường sống, tạo khu nghỉ ngơi cho thị dân... Đồng thời sự suy giảm diện tích đất nông nghiệp đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc cải thiện mức sống của nhiều người dân ở khu vực ngoại ô vì họ trở nên thiếu phương tiện lao động và kế sinh nhai truyền thống.

Thứ hai, khoét sâu hố phân cách giàu nghèo. Quá trình ĐTH nhanh đã làm cho hố phân cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong đô thị, giữa nông thôn và thành thị trở nên trầm trọng hơn.

Thứ ba, gia tăng tình trạng di dân. Chính sự chênh lệch về mức sống, điều kiện sống, khả năng tìm kiếm việc làm và cơ hội tăng thu nhập đã và đang được coi là những nguyên nhân kinh tế quan trọng nhất thúc đẩy một bộ phận lớn người dân rời khỏi khu vực nông thôn để di dân tới thành thị. Lực lượng lao động ở nông thôn chỉ còn lại những người già yếu và trẻ nhỏ, không đáp ứng được những công việc nhà nông vất vả. Cơ cấu lao động ở nông thôn


hoàn toàn bị thay đổi theo hướng suy kiệt nguồn lực lao động. Đồng thời thị trường lao động ở thành thị lại bị ứ đọng.

Thứ tư, môi trường bị ô nhiễm. Chất lượng môi trường đô thị bị suy thoái khá nặng nề do mật độ dân số tập trung cao, sản xuất công nghiệp phát triển mạnh làm phát sinh một lượng chất thải, trong đó chất thải gây hại ngày càng gia tăng; bùng nổ giao thông cơ giới gây ô nhiễm môi trường và tiếng ồn.

Thứ năm, phát sinh các tệ nạn xã hội. Đây chính là mặt trái của đời sống đô thị hay của cả quá trình ĐTH. Trong khi nhiều khía cạnh tốt đẹp của văn hóa truyền thống bị mai một, thì lối sống lai căng, không lành mạnh lại đang ngự trị trong lối sống đô thị hiện nay. Những tệ nạn xã hội phổ biến nhất hiện nay đều được phát sinh và phát triển tại các trung tâm đô thị lớn.

Tóm lại, trong công cuộc CNH, HĐH đất nước thì quá trình ĐTH ngày càng gia tăng... Vậy chúng ta phải làm thế nào để quá trình ĐTH phát triển lành mạnh và bền vững. Tăng trưởng kinh tế do quá trình này đem lại phải được chú trọng đồng thời việc phát triển văn hóa, lấy việc biến động nguồn nhân lực con người làm trọng tâm.

1.2. Thực tiễn quá trình đô thị hóa trên thế giới và ở Việt Nam

Tiến trình đô thị hoá gắn bó chặt chẽ với sự trường tồn phát triển của lịch sử nhân loại. Quá trình này mới là sản phẩm của nền văn minh, vừa là động lực của những bước tiến kỳ diệu mà nhân loại đã đạt được trong mấy thiên nhiên kỷ qua.

Đối với Việt Nam, một nước nông nghiệp truyền thống với nền đô thị hoá thấp và chậm trong lịch sử đang bước vào thời kỳ mới của nền kinh tế thị trường, thời kì CNH - HĐH, việc nghiên cứu tìm hiểu diễn biến của quá trình đô thị hoá thế giới càng có ý nghĩa to lớn cả về mặt nhận thức, lý luận cũng như giá trị thực tiễn.


1.2.1. Tình hình đô thị hoá trên thế giới

Đô thị hoá là hiện tượng mang tính toàn cầu và diễn ra với tốc độ ngày một tăng, đặc biệt là ở các quốc gia kém phát triển. Theo các chuyên gia nghiên cứu về đô thị hoá thì trong tiến trình đô thị hoá nửa sau thế kỉ 20, các quốc gia kém phát triển có chung một đặc điểm là: ở giai đoạn đầu, tỉ trọng dân số đô thị trên tổng dân số thấp và tốc độ phát triển dân số đô thị nhanh, nhanh hơn rất nhiều so với các quốc gia phát triển.

Bảng 1.1 Tỷ lệ dân số đô thị các khu vực trên thế giới theo các giai

đoạn

đvt: %

Năm

Khu vực

1950

1970

1990

2000

Thế giới

29,7

36,7

43,7

47,4

Khu vực phát triển

54,99

66,7

73,7

76,1

Khu vực kém phát triển

77,8

25,1

34,7

40,5

Khu vực kém phát triển nhất

7,1

12,7

20,1

25,4

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Ảnh hưởng của xu hướng đô thị hóa đối với kinh tế hộ nông dân trên địa bàn thành phố Thái Nguyên - 4

Nguồn: World urbanization prospect: 1996, New York 1997

Trong cùng một khoảng thời gian 50 năm từ 1950 - 2000, tỉ lệ dân số đô thị toàn thế giới là từ 29,7% lên đến 47,4%, khu vực kém phát triển từ 17.8% lên 40,5% trong khi khu vực phát triển là từ 54,99% lên 76,1%.

Hiện tại tỉ lệ đô thị hoá châu Á là 35%, châu Âu là 75%, châu Phi là 45%, Bắc Mỹ trên 90% và 80% ở Mỹ La tinh. Theo báo cáo của Liên hợp quốc, trong 1/4 thế kỷ tới, việc tăng dân số hầu như sẽ chỉ diễn ra ở các thành phố mà phần lớn thuộc các nước kém phát triển. Đến năm 2030, hơn 60% dân số thế giới sống ở các đô thị [5].

Tiến trình phát triển đô thị đã góp phần to lớn vào sự nghiệp CNH-HĐH. Song sự bùng nổ đô thị quá tải đã tạo ra hàng loạt vấn đề gay cấn đối với cuộc sống con người, tạo ra sự thiếu cân bằng trong phân bố dân cư và vùng lao


động theo vùng lãnh thổ, khả năng cung ứng lương thực, thực phẩm ven đô tiêu hao nhiên liệu, năng lượng... Nếu trong năm 1990, bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người ở mức 0,27 ha thì con số này dự báo sẽ tụt xuống 0,17 ha vào năm 2025. Chiến lược chung của vấn đề đô thị hiện nay là:

1. Hạn chế việc di cư từ nông thôn ra đô thị trong đó yêu cầu nhất thiết phảI nâng cao mức sống nông thôn.

2. Khi tập trung quá tải, cùng với việc hạn chế nhập cư vào các tụ điểm lớn thì đồng thời phải tạo nên sự cân bằng hài hoà dân số đô thị, khuyến khích các đô thị vừa và nhỏ, tăng cường đầu tư hệ thống dịch vụ, xây dựng cơ sở hạ tầng, có cơ sở xã hội thoả đáng...

1.2.2. Kinh nghiệm đô thị hoá ở một số nước trên thế giới

1.2.2.1. Hà Lan

Hà Lan là một quốc gia phát triển. Theo Joanna Wilbers, để khắc phục những tác động tiêu cực của quá trình đô thị hoá, năm 1994, các nhà hoạch định cuộc sống thuộc bộ tài nguyên môi trường đã đưa ra “Chính sách hiệp ước”. Theo chính sách này, các khu vực nông thôn vẫn giữ nguyên là nông thôn đồng thời cũng quy hoạch phát triển đô thị làm các khu dân cư, trung tâm tài chính và thương mại. Chính sách này cũng đưa ra những nguy hại đối với việc đô thị hoá các khu vườn ven thành phố [15,32].

Ngay từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Amsterdam đã bắt đầu tiến trình đô thị hoá và nhanh chóng trở thành một thành phố có tầm ảnh hưởng lớn đến kinh tế, chính trị của Hà Lan. Tuy mật độ dân số hiện nay ở thành phố có những nơi đạt trên 20.000 người/km2 nhưng xung quanh thành phố vẫn tồn tại khoảng 600 khu vườn. Diện tích vườn ở Amsterdam chiếm đến 300 ha trong tông số diện tích 21.907 ha của thành phố [5, 32].

Những người nông dân ở thành phố Amsterdam đã thành lập các tổ chức gọi là “Hội những người nông dân đô thị” và “Hiệp hội những người làm


vườn ở Amsterdam” (BVV). Các hiệp hội đại diện cho tầng lớp nông dân thương lượng với Chính phủ trong việc duy trì sự tồn tại của các khu vườn trong quá trình ĐTH. Hiệp hội những người làm vườn đã đưa ra lí luận về sự đa chức ngành của các khu vườn. Các khu vườn được sử dụng để sản xuất lương thực, thực phẩm cung cấp cho nhu cầu của thành phố, đồng thời còn thực hiện nhiều chức năng khác nhau để bình đẳng hoá các nhóm lợi ích như: cung cấp cho thị dân một không gian mới, giáo dục cho trẻ em về thiên nhiên và môi trường; làm gia tăng số lượng loài động vật, côn trùng và cây cỏ; duy trì “không gian xanh” cho thành phố, làm trong sạch khí hậu thành phố.

Vào năm 1995, khoảng 170 nông dân đã tổ chức “Diễn đàn đối thoại của nông dân vùng đất xám”. Họ đã đưa ra những phân tích cuả mình về triển vọng kinh tế dài hạn của vùng đất này nếu tiếp tục sản xuất nông nghiệp và thay đổi phương pháp sử dụng đất. Họ đã đối thoại trực tiếp với chính phủ và các tổ chức môi trường nhằm giữ vững và phát triển sản xuất nông nghiệp. Bản thân những người nông dân đã trở thành người quản lý, giáo dục và hoạt động kinh tế ở địa phương mình.

Một số nông trang quanh các khu đô thị đã thấy rò tầm quan trọng của nông nghiệp đối với thành phố trong quá trình ĐTH. Họ nhận thức được tính đa chức năng của một nền nông nghiệp đô thị. Do đó trong quá trình ĐTH, sản xuất nông nghiệp vẫn không mất đi mà tiếp tục tồn tại hài hoà, kết hợp với sự phát triển bền vững của kinh tế đô thị.

1.2.2.2. Trung Quốc

Trung Quốc là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh và tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Nếu vào năm 1949, Trung Quốc có 136 thành phố với số dân khoảng 54 triệu người, chiếm khoảng 10,6% dân số cả nước thì đến năm 2005, dân số đô thị nước này đã đạt tới 800 triệu người sống ở trên 700 thành phố, tỷ lệ bằng 37%. Có những dự đoán cho rằng đến năm 2050, tỷ lệ

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 15/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí