Nghiên cứu mối quan hệ giữa lợi suất cổ phiếu và thanh khoản thị trường - trường hợp các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 2


tăng mạnh, đạt 34,5% GDP; mức vốn hóa thị trường đạt khoảng 23% GDP. Các năm tiếp theo đánh dấu sử khởi sắc mạnh mẽ của thanh khoản thị trường, vượt qua tất cả các dự báo (2016, 2017, 2018). Mặc dù vậy, vẫn còn những hạn chế và tiềm ẩn rủi ro phát sinh đối với thanh khoản thị trường như công nghệ lạc hậu, minh bạch thông tin chưa cao, thu hút dòng vốn ngoại vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được các tiêu chí về nâng hang thị trường,… Bên cạnh đó, để đảm bảo sự ổn định và thanh khoản thị trường đối với cổ phiếu của doanh nghiệp niêm yết, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng quyền bảo vệ nhà đầu tư là một yếu tố quan trọng không những tác động đến sự phát triển của một quốc gia mà còn tác động đến sự phát triển của từng công ty trong quốc gia đó. Một quốc gia có quyền bảo vệ nhà đầu tư mạnh sẽ làm giảm tính bất cân xứng thông tin và do đó động viên nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán, dẫn tới sự tăng lên của tính thanh khoản cổ phiếu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, giá trị doanh nghiệp tại các quốc gia có quyền bảo vệ nhà đầu tư mạnh được cho là cao hơn giá trị doanh nghiệp tại các quốc gia có quyền bảo vệ nhà đầu tư yếu.

Cho đến thời điểm hiện nay, các nghiên cứu về lợi suất cổ phiếu và thanh khoản thị trường của cổ phiếu ở Việt Nam không nhiều. Nhiều nghiên cứu tập trung vào các nhân tố ảnh hưởng tới lợi suất cổ phiếu và các nhân tố ảnh hưởng tới thanh khoản cổ phiếu trên thị trường, tuy nhiên vẫn còn khá khiêm tốn công trình đề cập tới mối quan hệ giữa lợi suất cổ phiếu và thanh khoản thị trường của cổ phiếu. Bên cạnh đó, việc tập trung nghiên cứu vào lợi suất cổ phiếu là quan trọng vì lợi suất cổ phiếu có thể tác động đến cơ cấu vốn và giá trị doanh nghiệp. Do vậy, việc lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu mối quan hệ giữa lợi suất cổ phiếu và thanh khoản thị trường: Trường hợp các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” nhằm góp phần ổn định thanh khoản cổ phiếu trên trên thị trường và đưa ra khuyến nghị hướng tới chiến lược nâng hạng thị trường ở Việt Nam hiện nay.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, nghiên cứu đặt ra các mục tiêu nghiên cứu tổng quát và các mục tiêu cụ thể.

2.1. Mục tiêu tổng quát

Mục tiêu tổng quát của luận án là nghiên cứu mối quan hệ giữa lợi suất cổ phiếu và thanh khoản thị trường của cổ phiếu tại các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhằm làm rõ sự tồn tại của mối quan hệ này.

2.2. Mục tiêu cụ thể

Để thực hiện được mục tiêu tổng quát, các mục tiêu cụ thể được đặt ra như sau:


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.

- Luận giải vấn đề lý luận về thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu.

- Đánh giá tác động của thanh khoản thị trường cổ phiếu đến lợi suất cổ phiếu.

Nghiên cứu mối quan hệ giữa lợi suất cổ phiếu và thanh khoản thị trường - trường hợp các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 2

- Kiểm tra ảnh hưởng của quyền bảo vệ nhà đầu tư đến mối quan hệ giữa thanh khoản thị trường cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu.

- Đánh giá tác động của thanh khoản thị trường cổ phiếu đến giá trị doanh nghiệp và cơ cấu vốn doanh nghiệp.

- Đề xuất các khuyến nghị nhằm tăng tính thanh khoản cổ phiếu trên thị trường.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ của thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu. Nghiên cứu này tập trung vào thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu vì các yếu tố này là hai trong những yếu tố quyết định được nhà đầu tư quan tâm khi đầu tư vào cổ phiếu. Bên cạnh đó, các yếu tố này cũng được cho là có tác động đến giá trị và cơ cấu vốn doanh nghiệp (Lipson và Mortal, 2009; Fang và cộng sự, 2009).

- Phạm vi nghiên cứu: Dữ liệu nghiên cứu của luận án bao gồm 596 công ty phi tài chính niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2019. Bên cạnh đó, để đánh giá chi tiết mối quan hệ giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất của cổ phiếu và khác biệt so với các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa thanh khoản và lợi suất cổ phiếu, nghiên cứu này tập trung vào thanh khoản thị trường của cổ phiếu riêng lẻ, thay vì nghiên cứu về thanh khoản cả thị trường hoặc của danh mục đầu tư.

- Trong phần kiểm định, luận án tập trung nghiên cứu về tác động của thanh khoản thị trường của cổ phiếu tới lợi suất của cổ phiếu trong thời gian 2010-2019. Trong quá trình tổng quan nghiên cứu, tác giả nhận thấy tồn tại tác động của lợi suất cổ phiếu đến giá trị và cơ cấu vốn doanh nghiệp. Do vậy, luận án này mở rộng đối tượng nghiên cứu thêm tác động của thanh khoản thị trường cổ phiếu đến giá trị doanh nghiệp và tác động của thanh khoản thị trường cổ phiếu đến cơ cấu vốn doanh nghiệp.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Thiết kế nghiên cứu và quy trình nghiên cứu: Dựa trên đề tài nghiên cứu, tác giả tóm tắt tổng quan nghiên cứu, từ đó xây dựng khung lý thuyết liên quan. Bước tiếp theo của luận án bao gồm thu thập và tổng hợp các số liệu cần thiết dựa vào phần tổng


quan nghiên cứu và khung lý thuyết liên quan này. Cuối cùng, luận án phân tích các chỉ số phân tích hồi quy và kiểm định mô hình để hoàn thiện kết quả nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, so sánh, các phương pháp thống kê và phương pháp hồi quy kinh tế lượng để đánh giá tác động của tính thanh khoản cổ phiếu đến lợi suất cổ phiếu.

5. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo và các bảng biểu liên quan, kết cấu của luận án gồm 5 chương:

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.

Chương 2: Cơ sở lý luận về thanh khoản thị trường của cổ phiếu, lợi suất cổ phiếu, giá trị doanh nghiệp và cơ cấu vốn doanh nghiệp

Chương 3: Nghiên cứu thực chứng tác động của thanh khoản thị trường của cổ phiếu đến lợi suất cổ phiếu

Chương 4: Kiểm định thực chứng tác động của thanh khoản thị trường của cổ phiếu đến giá trị và cơ cấu vốn doanh nghiệp.

Chương 5: Tóm tắt kết quả và khuyến nghị.


TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN


Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận

- Luận án đã đóng góp tổng quan nghiên cứu về mối quan hệ của thanh khoản cổ phiếu tới lợi suất cổ phiếu, giá trị doanh nghiệp và đòn bẩy tài chính doanh nghiệp; cụ thể thanh khoản cổ phiếu ảnh hưởng tiêu cực tới lợi suất của cổ phiếu, với các yếu tố khác không đổi, tác động này sẽ làm tăng giá trị doanh nghiệp và làm giảm đòn bẩy tài chính doanh nghiệp.

- Luận án đã chỉ ra rằng tính thanh khoản cổ phiếu đã tác động trực tiếp đến giá trị doanh nghiệp và tác động gián tiếp đến giá trị doanh nghiệp thông qua tác động đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp.

- Quyền bảo vệ nhà đầu tư đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu ở trên thế giới, tuy nhiên việc nghiên cứu quyền bảo vệ nhà đầu tư tại Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn, nghiên cứu này chỉ ra thanh khoản cổ phiếu tác động tiêu cực tới lợi suất của cổ phiếu trong trường hợp quyền bảo vệ cổ đông yếu. Kết quả này cung cấp tổng quan các công trình nghiên cứu về mối quan hệ này ở Việt Nam

Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án

- Bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa lợi suất cổ phiếu và thanh khoản thị trường cung cấp thông tin cho các bên tham gia thị trường như cơ quan quản lý, nhà đầu tư trong nước, ngoài nước, thị trường,… trong việc ra quyết định về chính sách, đầu tư,…

- Minh bạch hóa thông tin, cải tiến công nghệ,… cần được cải thiện nhằm ổn định và phát triển thanh khoản thị trường đáp ứng mục tiêu nâng hạng thị trường.

- Quyền bảo vệ nhà đầu tư cần được tăng cường trong Quản trị công ty đối với các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam.


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.1. Mối quan hệ giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu

Một trong những nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu mối quan hệ giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất của cổ phiếu là nghiên cứu của Amihud và Mendelson (1986). Nghiên cứu này lập luận rằng có một mối quan hệ giữa lợi suất cổ phiếu và thanh khoản thị trường của cổ phiếu, được đo lường bằng chi phí giao dịch cổ phiếu thông qua khoảng chênh lệch giá mua - giá bán cổ phiếu trong một phiên giao dịch. Khoảng cách chênh lệch giá mua - giá bán cổ phiếu càng lớn thì hàm ý rằng chi phí giao dịch càng lớn và thanh khoản thị trường của cổ phiếu càng nhỏ. Kết quả nghiên cứu thực chứng của nghiên cứu này (mẫu nghiên cứu bao gồm các công ty niêm yết trên Sàn Giao dịch chứng khoán New York từ năm 1961 đến năm 1980) đã tìm ra một mối quan hệ cùng chiều giữa khoảng chênh lệch giá mua - giá bán cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu. Do thanh khoản thị trường của cổ phiếu có mối quan hệ ngược chiều với chênh lệch giá mua - giá bán cổ phiếu nên kết quả nghiên cứu này chỉ ra một mối quan hệ ngược chiều giữa thanh khoản thị trường cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu. Nói cách khác, khi thanh khoản thị trường của cổ phiếu giảm xuống thì lợi suất cổ phiếu tăng lên. Kết quả nghiên cứu này hàm ý rằng tồn tại phần bù rủi ro cho thanh khoản thị trường của cổ phiếu, trong đó phần bù rủi ro càng cao nếu như cổ phiếu có thanh khoản thị trường ít.

Một trong những bài báo khoa học khác đã đặt cơ sở cho việc nghiên cứu thanh khoản thị trường của cổ phiếu là nghiên cứu của Amihud vào năm 2002. Nghiên cứu này đã xây dựng một chỉ tiêu mới đo lường sự không thanh khoản thị trường của một cổ phiếu, có tên là chỉ số Amihud. Khi chỉ số này tăng lên thì sự không thanh khoản thị trường của cổ phiếu sẽ tăng lên. Nói cách khác, khi chỉ số này tăng lên thì sự thanh khoản thị trường của cổ phiếu sẽ giảm xuống. Amihud (2002) đã sử dụng mẫu nghiên cứu các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán New York trong khoảng thời gian từ năm 1964 đến 1997 để đo lường thanh khoản thị trường của các cổ phiếu trong mẫu nghiên cứu này. Sau đó, Amihud (2002) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa thanh khoản thị trường cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu công ty. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi chỉ số Amihud tăng lên thì lợi suất cổ phiếu cũng tăng lên, hàm ý rằng khi thanh khoản thị trường của cổ phiếu tăng lên (chỉ số Amihud giảm xuống) thì lợi suất cổ phiếu sẽ giảm xuống. Như vậy, kết quả nghiên cứu này là giống với kết quả nghiên cứu của Amihud và Mendelson (1986).


Ngoài hai nghiên cứu đề cập phía trên, còn rất nhiều nghiên cứu khác nghiên cứu mối quan hệ giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu. Một vài nghiên cứu thậm chí còn phản bác lại kết quả nghiên cứu của Amihud và Mendelson (1986). Ví dụ, Chen và Kan (1989) cho rằng kết quả nghiên cứu mà Amihud và Mendelson (1986) có được là do phương pháp nghiên cứu chứ thực tế thanh khoản thị trường cổ phiếu không có tác động đáng kể đến lợi suất cổ phiếu. Eleswarapu và Reinganium (1993) lại chỉ ra rằng mối quan hệ ngược chiều giữa thanh khoản thị trường cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu chỉ tồn tại trong tháng 1. Mặc dù vậy, nghiên cứu sau đó của Eleswarapu (1997) lại cho thấy mối quan hệ này tồn tại ở tất cả các tháng và mạnh nhất ở tháng 1.

Tuy nhiên, đa phần các nghiên cứu về thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu đều ủng hộ kết quả nghiên cứu của Amihud và Mendelson (1986) và Amihud (2002). Ví dụ, Datar và cộng sự (1998) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa thanh khoản thị trường và lợi suất của cổ phiếu với mẫu nghiên cứu bao gồm các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán New York giai đoạn 1962 - 1991. Kết quả nghiên cứu này tìm ra một mối quan hệ ngược chiều giữa thanh khoản thị trường và lợi suất của cổ phiếu doanh nghiệp. Nói cách khác, tồn tại phần bù rủi ro thanh khoản thị trường cho lợi suất cổ phiếu doanh nghiệp. Hơn nữa, nghiên cứu này đã chỉ ra rằng phần bù rủi ro này tồn tại trong tất cả các tháng của một năm. Như vậy, kết quả nghiên cứu của Datar và cộng sự (1998) đã ủng hộ kết quả nghiên cứu của Amihud và Mendelson (1986) và không ủng hộ kết quả nghiên cứu của Eleswarapu và Reinganium (1993).

Chang và cộng sự (2010) sử dụng mẫu nghiên cứu bao gồm các công ty niêm yết ở Sở Giao dịch chứng khoán Tokyo trong giai đoạn 1975 đến 2004. Kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng thanh khoản thị trường của cổ phiếu có mối quan hệ ngược chiều với lợi suất cổ phiếu. Ngoài ra, kết quả này cũng chỉ ra rằng mối quan hệ này phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế. Cụ thể, kết quả nghiên cứu này cho thấy mối quan hệ này chỉ tồn tại trong điều kiện nền kinh tế bùng nổ và gần như không tồn tại trong điều kiện nền kinh tế suy thoái. Nghiên cứu này cũng cho thấy độ biến thiên của thanh khoản thị trường của cổ phiếu (liquidity variability) có mối quan hệ ngược chiều với lợi suất cổ phiếu. Tức là, nếu như thanh khoản thị trường của của cổ phiếu mà có độ biến thiên càng lớn thì lợi suất yêu cầu của cổ phiếu càng nhỏ.

Marshall và Young (2003) nghiên cứu mối quan hệ giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu tại Australia trong giai đoạn 1994 - 1998. Nghiên cứu này chỉ ra rằng phần bù rủi ro thanh khoản thị trường của cổ phiếu (thanh khoản thị


trường của cổ phiếu thấp sẽ được bù đắp rủi ro - hàm ý mối quan hệ ngược chiều giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu) có tồn tại tại quốc gia này. Mặc dù phần bù rủi ro này là nhỏ nhưng nó tồn tại trong tất cả các tháng của một năm. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng các công ty lớn thì có lợi suất yêu cầu nhỏ. Marshall (2006) cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu tại Australia và có tìm ra bằng chứng thực nghiệm tương tự như kết quả nghiên cứu của Marshall và Young (2003).

Khác với các nghiên cứu trên tập trung vào các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Australia và Nhật Bản, một vài nghiên cứu khác lại nghiên cứu mối quan hệ giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu tại các quốc gia đang phát triển. Ví dụ, Akram (2014) đã nghiên cứu mối quan hệ này tại Pakistan trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2012. Kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng tồn tại một mối quan hệ ngược chiều giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất yêu cầu cổ phiếu. Tuy nhiên, mẫu nghiên cứu này rất nhỏ, chỉ bao gồm 10 công ty. Còn nhiều nghiên cứu khác cũng được thực hiện tại các quốc gia đang phát triển và cung cấp bằng chứng tương tự như nghiên cứu của Amihud và Mendelson (1986) như nghiên cứu của Loukil và cộng sự (2010) cho thị trường Tunisia và nghiên cứu của Marozva (2019) cho thị trường Nam Phi.

Tại Việt Nam, cũng có một nghiên cứu nghiên cứu mối quan hệ giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu, đó là nghiên cứu của Batten và Vo (2014). Mẫu nghiên cứu của nghiên cứu này bao gồm các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2010. Khác với phần lớn các nghiên cứu ở trên, nghiên cứu này chỉ ra một mối quan hệ cùng chiều giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu. Tức là, khi thanh khoản thị trường của cổ phiếu tăng lên thì lợi suất cổ phiếu cũng tăng lên. Batten và Vo (2014) giải thích kết qủa nghiên cứu này là do Việt Nam chưa hội nhập vào nền kinh tế thế giới và do đó thanh khoản thị trường của cổ phiếu không phải là một yếu tố rủi ro quan trọng tác động đến phần bù rủi ro của cổ phiếu. Tuy nhiên, nghiên cứu sinh cho rằng kết quả nghiên cứu của Batten và Vo (2014) là do mẫu nghiên cứu của nghiên cứu này bao gồm phần lớn một khoảng thời gian đặc biệt, đó là cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007 - 2008. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính có thể làm thay đổi mối quan hệ giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu. Do đó, nghiên cứu sinh cho rằng cần phải nghiên cứu lại mối quan hệ này tại Việt Nam với một khoảng thời gian khác. Tóm lại, dựa vào cơ sở lý thuyết được đề


cập trong nghiên cứu của Amihud và Mendelson (1986) và phần lớn các bằng chứng thực nghiệm nêu trên, luận án này đưa ra giả thuyết nghiên cứu như sau:

Giả thuyết nghiên cứu 1: Tồn tại mối quan hệ dương giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và lợi suất cổ phiếu.

Lợi suất cổ phiếu có thể tác động đến giá trị doanh nghiệp. Khi lợi suất cổ phiếu cao, tỷ suất lợi suất yêu cầu của cổ phiếu cũng sẽ cao, và do đó chi phí vốn của doanh nghiệp có thể sẽ tăng lên và điều này sẽ tác động đến giá trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, lợi suất cổ phiếu cũng tác động đến cơ cấu vốn doanh nghiệp. Khi lợi suất cổ phiếu tăng lên, tỷ suất lợi suất yêu cầu cũng tăng lên, và do đó chi phí vốn chủ sở hữu của công ty sẽ tăng lên, ảnh hưởng đến việc công ty huy động vốn chủ sở hữu và cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Chính vì thế, bên cạnh việc nghiên cứu tác động của thanh khoản thị trường của cổ phiếu đến lợi suất cổ phiếu, luận án này sẽ mở rộng ra và nghiên cứu tác động của thanh khoản thị trường của cổ phiếu đến giá trị và cơ cấu vốn doanh nghiệp. Phần tiếp theo sẽ trình bày tổng quan nghiên cứu về mối quan hệ giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và giá trị doanh nghiệp và giữa thanh khoản thị trường của cổ phiếu và cơ cấu vốn doanh nghiệp.

1.2. Thanh khoản thị trường của cổ phiếu và giá trị doanh nghiệp

Tác động của thanh khoản cổ phiếu tới giá trị doanh nghiệp đã được quan tâm bởi nhiều học giả trên thế giới. Các lý thuyết cơ bản về hiệu quả hoạt động đều cho rằng thanh khoản thị trường của cổ phiếu có tác động tích cực đối với giá trị doanh nghiệp. Thanh khoản của thị trường chứng khoán thường phản ánh các giao dịch có khối lượng lớn mà không phải chịu mức giá cao và chi phí giao dịch (Paster and Stambaugh, 2003); trong khi đó thanh khoản của cổ phiếu được phản ánh giao dịch khối lượng lớn với mức tối thiêu của giá giao dịch và các loại chi phí liên quan. Nhiều nghiên cứu đã sử dụng thanh khoản tần số thấp (low-frequency liquidity) hoặc thanh khoản tần số cao (high-frequency liquidity) như tiêu chuẩn đánh giá tính thanh khoản của cổ phiếu. Tuy vậy, Chen và cộng sự (2007) cho rằng để nên lấy chênh lệch giữa lệnh mua và lệnh bán hoặc theo tiêu chí về khối lượng và doanh số giao dịch (Krishma, 2012). Thực tế cho thấy mối quan hệ giữa thanh khoản cổ phiếu và giá trị doanh nghiệp vẫn còn nhiều tranh cãi. Căn cứ vào các mô hình đánh giá tài sản vốn, nhiều nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng thanh khoản thấp hơn dẫn đến tỷ lệ lợi nhuận yêu cầu cao hơn, điều này phản ánh sự bù đắp cho việc gánh chịu rủi ro đối với các tài sản kém thanh khoản cho các nhà đầu tư. Tỷ lệ lợi nhuận yêu cầu cao hơn được đưa ra dưới dạng bù đắp này sẽ dẫn đến giá trị thấp hơn cho các công ty kém thanh khoản. Amihud và Mendelson (2008) cho rằng các chính sách của doanh nghiệp với mục tiêu hỗ trợ thanh khoản sẽ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/02/2023