điểm. Nghiên cứu sử dụng thang đo tính hữu hiệu của KSNB là với ba chỉ báo: tính hữu hiệu và hiệu quả, BCTC đáng tin cậy, tuân thủ pháp luật và quy đinh. Nghiên cứu cũng chỉ ra tác động của các yếu tố thành phần KSNB đến tính hữu hiệu KSNB. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ ra tính hữu hiệu KSNB có giá trị trung bình 4,75/7 điểm
Nakiyaga và Dinh (2017) nghiên cứu văn hóa tổ chức có ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của KSNB như thế nào. Nghiên cứu làm rõ vai trò của lãnh đạo cấp cao đối với việc điều chỉnh sao cho KSNB hữu hiệu, đặc biệt là đối với các tổ chức hoạt động ở các nền kinh tế mới nổi. Họ dựa trên nền tảng khung lý thuyết về cạnh tranh độc quyền, và sử dụng phương pháp thực nghiệm, phương pháp nghiên cứu lý thuyết để xem xét và hiểu các khái niệm chính về văn hóa tổ chức, tính hữu hiệu KSNB và vai trò hữu hiệu KSNB. Nghiên cứu cho thấy các nhà lãnh đạo cấp cao đặt ra mục tiêu cho tổ chức và tổ chức công việc, đào tạo huấn luyện nhân sự thực hiện công việc từ đó ảnh hưởng đến văn hóa tổ chức và có tác động đến thành phần KSNB, và tính hữu hiệu KSNB. Việc có được chất lượng một hệ thống KSNB có ảnh hướng đáng kể đến tính đúng đắn, các sai sót của các hướng dẫn trong quản lý. Hạn chế nghiên cứu chỉ dừng ở phương pháp định tính để thu thập dữ liệu và các kết quả nghiên cứu được phân tích bằng cách sử dụng phương pháp suy luận.
Trong ngữ cảnh của Việt Nam, Nguyễn Anh Phong và Hà Tôn Trung Hạnh (2010) với đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động KSNB ở các ngân hàng TMCP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”. Các tác giả đã kế thừa COSO (1992) và Basel II để xây dựng mô hình nghiên cứu với biến độc lập là 5 yếu tố cấu thành của KSNB; biến phụ thuộc là: mức độ đánh giá hiệu quả công tác KSNB. Nhóm tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu và khảo sát 10 NHTM sử dụng thang đo Likert 5 với 195 phiếu trả lời. Nghiên cứu cho thấy các nhân tố đưa vào mô hình đã giải thích được 87,4% ảnh hưởng đến mức độ đánh giá hiệu quả công tác KSNB và không có hiện tượng đa cộng tuyến (VIF<10) từ đó các tác giả đưa ra các hàm ý về chính sách cho NHTM.
Hồ Tuấn Vũ (2016) nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của hệ thống KSNB trong các NHTM Việt Nam. Tác giả kết hợp cả hai phương pháp định tính và định lượng. Nghiên cứu cho thấy, ngoài 5 biến độc lập theo 5 yếu tố cấu thành của COSO, Basel còn có thêm hai biến “thể chế chính trị” và “lợi ích nhóm” có ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của hệ thống KSNB. Biến phụ thuộc sự hữu hiệu của hệ thống KSNB được đo lường qua ba chỉ báo: hiệu quả và hiệu năng, BCTC lập đáng tin cậy, pháp luật và các quy định liên quan được tuân thủ. Nghiên cứu đã phát hiện ra được 2 nhân tố mới, bên cạnh 5 yếu tố cấu thành KSNB có ảnh hưởng thuận chiều đến sự hữu hiệu của KSNB trong các NHTM Việt Nam.
Nguyễn Thị Hoàng Lan (2019) nghiên cứu đánh giá tác động của cấu trúc KSNB đến tính hữu hiệu trong các đơn vị công lập tại Việt Nam. Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp và khảo sát 123 đơn vị sự nghiệp công lập Việt Nam. Với việc coi cấu trúc KSNB là biến tiềm ẩn được phản ánh qua 5 yếu tố cấu thành KSNB và biến điều tiết là mức độ tự chủ tài chính ảnh hưởng đến sự hữu hiệu KSNB. Nghiên cứu cho thấy cấu trúc KSNB có tác động mạnh và thuận chiều đến sự hữu hiệu KSNB. Ngoài ra, nghiên cứu còn phát hiện thêm mức độ tự chủ tài chính cao thì có tác động mạnh hơn so với mức tự chủ tài chính thấp.
Hung và Tuan (2019) nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu KSNB trong các ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam. Nghiên cứu dựa trên nghiên cứu Amudo và Inanga (2009), Gamage và cộng sự (2014), Basel II. Nghiên cứu có cùng hướng Hồ Tuấn Vũ (2016) về đối tượng khảo sát là các THTM Việt Nam. Tuy nhiên, hai tác giả ngoài xem xét các nhân tố là 5 yếu tố cấu thành KSNB còn phát hiện thêm các nhân tố mới: quy mô và xếp hạng tình trạng tín dụng; biến tính hữu hiệu KSNB được đo lường thông qua ba mục tiêu của KSNB. Kết quả các nhân tố có ảnh hưởng đến tính hữu hiệu KSNB.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nghiên Cứu Về Thành Phần Kiểm Soát Nội Bộ
- Khác Biệt Giữa Tổ Chức Cơ Học Và Tổ Chức Hữu Cơ
- Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Tính Hữu Hiệu Của Kiểm Soát Nội Bộ
- Nghiên cứu kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam - 7
- Đặc Điểm Hoạt Động Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ
- Đặc Điểm Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ
Xem toàn bộ 245 trang tài liệu này.
Phạm Quốc Thuận và Nguyễn công Cường (2020) nghiên cứu tính hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ trong các DN nhỏ và vừa tại Việt Nam. Nghiên cứu đo lường tính hữu hiệu của KSNB theo quan điểm COSO (2013). Nghiên cứu đánh giá tính hữu hiệu của KSNB qua xem xét 5 yếu tố cấu thành KSNB và tính hữu hiệu KSNB qua 3 mục tiêu: tính hữu hiệu và hiệu quả, BCTC đáng tin cậy, tuân thủ pháp luật và các quy định. Các thang đo trong nghiên cứu kế thừa thang đo Noorvee (2016). Kết qua cho thấy tính hữu hiệu của KSNB ở mức chấp nhận được với số điểm là 3,442/5 điểm.
Gần đây, Anh và cộng sự (2020) nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu KSNB trong công ty sản xuất xi măng. Nghiên cứu sử dụng các nhân tố là 5 yếu tố cấu thành KSNB (COSO, 2013) làm biến độc lập và biến phụ thuộc sự hữu hiệu KSNB được đo lường như trong nghiên cứu Hồ Tuấn Vũ (2016), Hung và Tuan (2019). Nghiên cứu khảo sát 210 cán bộ quản lý và nhân viên tại các công ty xi măng Việt Nam với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS đánh giá độ tin cậy của thang đo thông qua hệ số Cronbach`s Alpha và phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA). Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố trên có mối quan hệ cùng chiều với tính hữu hiệu của KSNB. Ngoài ra còn có các nghiên cứu đóng góp về mặt lý luận và thực trạng KSNB về một ngành, một lĩnh vực cụ thể như: Ngô Trí Tuệ (2004), Nguyễn Thu Hoài (2011), Phạm Bính Ngọ (2011), Bùi Thị Minh Hải (2012), Nguyễn Thị Lan Anh (2013), Phạm Thanh Thủy (2015).
Vậy, theo các công trình nghiên cứu trước, tác giả nhận thấy đánh giá tính hữu hiệu KSNB thông qua cảm nhận của nhà quản lý. Biến phụ thuộc tính hữu hiệu KSNB được đo lường qua ba chỉ báo: Hiệu quả và hiệu năng của hoạt động, BCTC được lập đáng tin cậy, pháp luật và các quy định liên quan được tuân thủ. Cấu trúc/thành phần KSNB ảnh hưởng đến tính hữu hiệu KSNB được thực hiện: đánh giá tác động từng yếu tố thành phần KSNB hoặc đánh giá trên cơ sở biến tiềm ẩn cấu trúc/thành phần KSNB đến tính hữu hiệu của KSNB.
Qua tổng quan nghiên cứu, tác giả có một số đánh giá nhận xét sau:
- Thuật ngữ “Cấu trúc KSNB” được các tác giả trên thế giới sử dụng thay cho KSNB/thành phần KSNB. Thành phần KSNB ở đây dựa trên nền tảng 5 yếu tố cấu thành KSNB của COSO (1992, 2013). Khi tổng kết các nghiên cứu trước, tác giả nhận thấy ngoài 5 yếu tố cấu thành của KSNB, một số tác giả đã phát hiện thêm một số nhân tố mới gắn với đặc thù DN ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của KSNB.
- Các nghiên cứu trước về KSNB phần lớn dựa trên hướng nghiên cứu của các tổ chức: COSO, COCO, BASEL... và một số tác giả uy tín để xây dựng mô hình và các thang đo.
- Việc vận dụng lý thuyết ngẫu nghiên trong các tổ chức vào nghiên cứu KSNB không được đề cập nhiều ở các công trình nghiên cứu trước. Các nhân tố mang đặc tính của tổ chức rất ít được tìm thấy trong các nghiên cứu KSNB đặc biệt ở Việt Nam. Các nhân tố đó được đề cập được tập trung nhiều vào xem xét mối quan hệ với kiểm soát kiểm quản lý.
- Nghiên cứu KSNB của các tác giả trên thế giới thường rất ít đề cập đến mô hình 2 lớp: xem xét mối quan hệ giữa các nhân tố đến thành phần KSNB; mối quan hệ giữ thành phần KSNB và tính hữu hiệu KSNB. Phần lớn các nghiên cứu trước theo mô hình nghiên cứu đơn lẻ và kiểm định hồi quy. Hơn nữa, các nghiên cứu trước về KSNB thường được tập trung nhiều ở các lĩnh vực sản xuất và tài chính ngân hàng.
2.1.4. Khoảng trống nghiên cứu
Qua tổng hợp các nghiên cứu cả trong nước và quốc tế, tác giả phát hiện ra rằng có nhiều nghiên cứu về KSNB dưới các khía cạnh khác nhau, trong các ngữ cảnh khác nhau và có gắn với các ngành khác nhau. Tác giả nhận thấy:
Thứ nhất, các công trình trước tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến KSNB nhưng trong DN đặc thù như DNBHPNT, cũng như khuyến nghị cần thiết về KSNB trong DNBHPNT Việt Nam vẫn còn thiếu vắng.
Thứ hai, tổng hợp nghiên cứu trước về các nhân tố ảnh hưởng KSNB cho thấy sự đa dạng cả chiều rộng và chiều sâu. Các nghiên cứu trước chủ yếu tập trung vào nghiên cứu tính hữu hiệu của KSNB thông qua các xem xét các nhân tố thành phần theo quan điểm COSO hoặc bổ sung thêm một vài nhân tố mới có gắn với tính đặc thù của DN nghiên cứu. Các nghiên cứu trước phần lớn tập trung vào nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống kiểm soát quản lý, chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng đến KSNB.
Thứ ba, nghiên cứu cũng đã chỉ ra được các nhân tố: văn hóa và công nghệ thông tin mới chỉ được đề cập trong các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống kiểm soát quản lý, chưa được đề cập nhiều trong nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng KSNB. Vì vậy, tác giả sẽ làm rõ tác động của các nhân tố này trong nghiên cứu này.
Thứ tư, nghiên cứu này không chỉ làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến KSNB, mà còn mở rộng hướng nghiên cứu tới tác động đến tính hữu hiệu của KSNB trong các DNBHPNT tại Việt Nam.
Thứ năm, các nghiên cứu về KSNB ở Việt Nam cũng có khá nhiều. Tuy nhiên, các nghiên cứu phần lớn tập trung vào nghiên cứu ứng dụng về KSNB cho một số lĩnh vực, ngành cụ thể. Cũng theo hướng nghiên cứu của các nghiên cứu trước; nghiên cứu này gắn chủ đề nghiên cứu với ngành bảo hiểm phi nhân thọ với nhiều điểm đặc thù; qua đó sẽ đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao tính hữu hiệu của KSNB trong các DNBHPNT tại Việt Nam.
2.2. Cơ sở lý thuyết
2.2.1. Kiểm soát nội bộ
2.2.1.1. Khái niệm kiểm soát nội bộ
Trước những năm 1930, khái niệm “KSNB” được giới hạn trong phạm vi “ Kiểm tra nội bộ”. Sau này, kiểm tra nội bộ được hiểu như là sự kết hợp của một hệ thống kiểm tra và các thủ tục phòng ban liên quan, trong đó một người thực hiện nghĩa vụ của mình một cách độc lập và kiểm tra công việc của người khác như là các nhân tố rõ nét liên quan đến khả năng phát hiện ra các gian lận (Sawyer và cộng sự, 2003). Khái niệm này đã làm nổi bật vấn đề là tách biệt giữa người thực hiện và người kiểm tra với mục đích của kiểm tra là nhằm phát hiện các gian lận. Đến năm 1929, thuật ngữ KSNB được đề cập chính thức trong công bố của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, theo đó KSNB được hiểu như là một công cụ để bảo vệ tiền và các tài sản khác, đồng thời thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động.
Với quá trình nhận thức và nghiên cứu về KSNB đã có nhiều quan điểm khác nhau về KSNB. Năm 1949, Hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA) đưa ra khái niệm đầu tiên về KSNB. Trong khái niệm này, AICPA đã đề cập đến một số vấn đề mới như KSNB là kế hoạch của tổ chức và các biện pháp, cách thức liên quan được chấp nhận và thực hiện trong một tổ chức để bảo vệ tài sản an toàn, kiểm tra tính chính xác và độ tin cậy của số liệu kế toán, thúc đẩy hoạt động có hiệu quả, khuyến khích sự tuân thủ các chính sách quản trị được thiết lập. Đến năm 1977, khái niệm hệ thống KSNB bắt đầu xuất hiện trong các văn bản pháp luật của Hạ viện Hoa Kỳ, với bài học được rút ra sau vụ bê bối với các khoản thanh toán bất hợp pháp cho Chính phủ nước ngoài. Đến thập niên 80, với sự sụp đổ hàng loạt của các DN cổ phần ở Hoa Kỳ. Các nhà lập pháp quan tâm nhiều hơn về KSNB và ban hành nhiều quy định hướng dẫn như: quy định các quy tắc đạo đức, kiểm soát và làm rõ chức năng KSNB và quy định về phòng chống gian lận BCTC. Năm 1992, AICPA đã có sửa đổi khái niệm về KSNB để đáp ứng nhu cầu quản lý. Theo đó, KSNB được hiểu là việc lập kế hoạch của tổ chức và tất cả sự kết hợp các cách thức, đo lường được thừa nhận trong phạm vi tổ chức để đảm bảo an toàn của tài sản, kiểm tra tính đúng đắn và tin cậy của các dữ liệu kế toán, thúc đẩy tính hữu hiệu của hoạt động, thúc đẩy sự tham gia các quy định trong tổ chức. Với việc đưa ra khái niệm KSNB cải tiến, AICPA đã mở rộng KSNB không chỉ liên quan đến việc kiểm tra kế toán mà còn gắn liền với việc đảm bảo an toàn của tài sản, tuân thủ các quy định của đơn vị, giảm thiểu rủi ro và đạt được các mục tiêu của tổ chức.
Năm 1992, COSO thống nhất khái niệm về KSNB phục vụ cho nhu cầu của các đối tượng khác nhau nhằm hỗ trợ cho Ủy ban thuộc hội đồng quốc gia của Mỹ về việc chống gian lận trên BCTC thuộc Hội đồng Quốc gia Hoa Kì (Treadway Commission). COSO đưa ra khái niệm đầy đủ về KSNB và dùng từ KSNB thay vì Kiểm toán nội bộ về kế toán. Báo cáo của COSO đã xác định: KSNB được hiểu là một quá trình, chịu ảnh hưởng bởi Ban Giám đốc, các nhà quản lý và các thành viên khác trong tổ chức, được thiết kế để cung cấp sự đảm bảo hợp lý liên quan đến việc đạt được các loại mục tiêu về: Hiệu quả và hiệu lực của hoạt động; Độ tin cậy của BCTC; Tuân thủ pháp luật và các quy định liên quan (COSO, 1992). Báo cáo này đã thiết lập khuôn mẫu chung giúp đơn vị đạt được mục tiêu quan trọng nhất là nâng cao tính hữu hiệu và hiệu quả của hoạt động. KSNB bao gồm 5 thành phần có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đó là: Môi trường kiểm soát; Đánh giá rủi ro; Hoạt động kiểm soát; Thông tin và truyền thông và Giám sát. Trong 5 thành phần đó thì ”Giám sát” được đề cập như một quá trình theo dõi và đánh giá chất lượng KSNB để đảm bảo các nội dung trong chính sách được triển khai, điều chỉnh và cải thiện liên tục để hệ thống này hoạt động được tốt. Với khái niệm KSNB của COSO đã có bước tiến mới so
với AICPA như: coi KSNB là một quá trình, không chỉ bó hẹp trong khâu kế toán; Nhấn mạnh vai trò của nhà quản lý trong KSNB; Mở rộng 3 mục tiêu mà KSNB hướng tới.
Sau hàng loạt các vụ gian lận dẫn đến phá sản của các DN lớn trên thế giới như: Tập đoàn Năng lượng Enron, Tập đoàn Viễn Thông Worldcom, Tập đoàn bán lẻ lớn Kmark... Năm 2002, Ở Mỹ đã ban hành đạo luật Sarbanes-Oxley (SOX), Mục 404 của đạo luật nhấn mạnh sự quan trọng của KSNB doanh nghiệp. Đạo luật yêu cầu các DN không chỉ thiết lập và duy trì KSNB mà còn yêu cầu nhà quản lý và kiểm toán viên độc lập đánh giá và báo cáo về tính hữu hiệu của KSNB. Ủy ban Giao dịch Chứng khoán của Mỹ (SEC) nhấn mạnh vai trò quan trọng của KSNB và chỉ rõ khuôn khổ COSO có thể được sử dụng cho mục đích đánh giá KSNB hàng năm của quản lý. Báo cáo COSO (1992) tuy chưa thực sự hoàn chỉnh nhưng đã tạo lập cơ sở lý thuyết cơ bản về KSNB. Với nhiều khái niệm của các tổ chức và các tác giả nghiên cứu dựa trên khái niệm của COSO.
Năm 2003, IFAC đã ban hành Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế 315 (ISA 315) “Hiểu biết tình hình kinh doanh, môi trường của DN và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu” trên cơ sở đề cập một cách toàn diện về khái niệm rủi ro trong kiểm toán. Chuẩn mực này đã thay thế cho các ISA 310 và ISA 400. Quan điểm về KSNB trong ISA 315 đã có rất nhiều thay đổi so với các Chuẩn mực kiểm toán trước đó. Theo ISA 315, KSNB được hiểu là một quá trình được thiết kế và chịu sự chi phối của các nhà quản lý và các nhân viên trong một tổ chức nhằm cung cấp sự bảo đảm hợp lý về việc đạt được các mục tiêu liên quan đến độ tin cậy của BCTC, hiệu quả hoạt động cùng hiệu năng quản lý và tuân thủ các quy định, luật lệ. ISA 315, khái niệm KSNB có nhiều điểm chung với báo cáo COSO (1992) như: KSNB là một quá trình, nhấn mạnh sự tham gia của các thành viên của tổ chức, nhấn mạnh vai trò trách nhiệm của người quản lý và KSNB nhằm đảm bảo hợp lý trong việc đạt các mục tiêu của KSNB.
Bên cạnh các khái niệm về KSNB của các hiệp hội thì có một số tác giả cũng đưa ra các khái niệm KSNB như:
Năm 2009, Moeller đã kế thừa và phát triển thêm khái niệm của COSO ứng dụng cho mục đích KTNB. Moeller (2009) cho rằng KSNB là một quá trình và KSNB không chỉ có ba mục tiêu mà còn bổ sung thêm mục tiêu khác là bảo vệ tài sản, thực hiện được sứ mệnh, mục tiêu và các kết quả của các hoạt động hoặc chương trình của đơn vị, đảm bảo tính chính trực và các giá trị đạo đức. Theo đó, KSNB là một quá trình được thiết kế bởi các nhà quản lý và áp dụng trong đơn vị nhằm cung cấp sự đảm bảo hợp lý về: Độ tin cậy của thông tin tài chính và thông tin hoạt động; Tuân thủ các chính sách, thủ tục, nội quy, quy chế và luật pháp Bảo vệ tài sản; Đảm bảo hiệu quả hoạt động thực hiện được sứ mệnh, mục tiêu và các kết quả của các hoạt động hoặc chương trình của đơn vị; Đảm bảo tính
chính trực và các giá trị đạo đức. Khái niệm của Moeller đưa ra có rất nhiều điểm tương đồng với COSO như: KSNB là một quá trình; Thiết kế bởi các nhà quản lý và các nhân viên; Đảm bảo thực hiện mục tiêu đặt ra. Điểm nổi bật nhất của khái niệm này tác giả bổ sung thêm mục tiêu đảm bảo tính chính trực và các giá trị đạo đức.
Arens và Loebbecke (2000) để đạt được mục tiêu cần phải xây dựng một hệ thống KSNB, theo đó hệ thống bao gồm các chính sách, thủ tục đặc thù được thiết kế để cung cấp cho các nhà quản lý sự đảm bảo hợp lý để thực hiện các mục tiêu đã định. Mục tiêu đó bao gồm: Đảm bảo độ tin cậy của thông tin; Bảo vệ tài sản và sổ sách; Đẩy mạnh tính hiệu quả của hoạt động; Tăng cường gắn bó với các chính sách và thủ tục đề ra. Với khái niệm này về KSNB về mặt cơ bản có nhiều điểm tương đồng với COSO, ở đây tác giả có nhấn mạnh tăng cường gắn bó với các chính sách và thủ tục; có điểm khác biệt coi KSNB là một hệ thống.
King (2011) cho rằng KSNB là một quá trình mà nhờ đó DN đạt được những mục tiêu, kết quả cũng như những kế hoạch thực hiện quyền lực, sự sắp xếp, giám sát trong toàn bộ DN hay sự phân tách nhiệm vụ. Barnabas (2011) cho rằng KSNB là sự tổng hợp các yếu tố của DN (bao gồm nguồn lực, những hệ thống, những quá trình, văn hóa, cơ cấu và những nhiệm vụ) giúp cho những nhân viên đạt được mục tiêu của DN. Shim (2011) cho rằng KSNB là một phần của hệ thống quản trị DN. Nó là một kế hoạch, là phương tiện và là những cách để bảo vệ tài sản, kiểm tra tính đúng đắn của việc thực hiện, bảo đảm tính hiệu quả hoạt động. Nó giúp cho DN tránh sai phạm, phát hiện và sửa chúng kịp thời, và đạt được những mục tiêu cũng như phỏng đoán được những bối cảnh xảy ra sai phạm. Qua nghiên cứu khái niệm về KSNB của các tác giả đã đề cập, tác giả nhận thấy có các đặc điểm: KSNB là quá trình; cấu trúc của KSNB; Đảm bảo mục tiêu đề ra; KSNB là cấu trúc của quả trị DN không thể tách rời; Đưa ra thêm mục tiêu phòng tránh sai phạm.
Năm 2011, IFAC đưa ra các khái niệm KSNB, trong đó khái niệm rộng và sâu hơn về KSNB là: KSNB là một phần gắn liền với hệ thống quản trị và quản lý rủi ro của tổ chức, do ban quản trị, những người quản lý và nhân sự khác hiểu, tác động và kiểm soát một cách chủ động để tận dụng cơ hội và chống lại các nguy cơ, phù hợp với chiến lược quản lý rủi ro và chính sách về KSNB được thiết lập bởi ban quản trị để đạt được các mục tiêu của tổ chức, bao gồm: Thực hiện các quá trình hoạt động và chiến lược có hiệu quả; Cung cấp thông tin hữu ích cho những người sử dụng bên ngoài và nội bộ để đưa ra quyết định kịp thời và chính xác; Đảm bảo tính tuân thủ luật và quy định được áp dụng cũng như chính sách, thủ tục, hướng dẫn riêng của tổ chức; Bảo vệ nguồn lực của tổ chức không bị mất mát, gian lận, lạm dụng và hủy hoại; Bảo vệ khả năng truy
cập liên tục, bảo mật và đầy đủ của hệ thống thông tin bao gồm công nghệ thông tin. Với khái niệm này có nét tương đồng với quan điểm Arens và Loebbecke (2000) như: KSNB là một hệ thống; Đảm bảo được các mục tiêu đề ra; bổ sung thêm hệ thống thông tin bao gồm công nghệ thông tin.
Sau 21 năm, năm 2013, Ủy ban COSO đã cập nhật và cải tiến báo cáo đã ban hành 1992, nhằm gia tăng sự dễ hiểu, rõ ràng và dễ áp dụng vào thực tế. Việc toàn cầu hóa kinh tế thế giới, sự phát triển của công nghệ thông tin trên quy mô toàn cầu đã đưa đến yêu cầu cao về tính minh bạch thông tin. COSO (2013) kế thừa khái niệm và các thành phần của KSNB của COSO (1992). Nó phát triển và mở rộng thêm như đưa ra 17 nguyên tắc (Principles) để giải thích các khái niệm liên quan đến 5 thành phần của KSNB (môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, thông tin truyền thông và giám sát) và đưa ra các hướng dẫn về quản trị rủi ro và biện pháp để giảm thiểu gian lận, từ đó giúp cải thiện hiệu quả hoạt động cũng như tăng cường sự giám sát của đơn vị. Tuy vậy, COSO có đưa ra 17 nguyên tắc gắn với 5 thành phần của KSNB cho các đơn vị. Khi áp dụng đưa vào đánh giá các đơn vị cụ thể tùy theo đặc điểm của DN phải có sự điều chỉnh thích hợp cho việc đánh giá KSNB sao cho phù hợp.
Qua quá trình tổng hợp khái niệm của các tác giả và tổ chức trên thế giới, tác giả nhận thấy nổi nên một số vấn đề chung: KSNB là sự kiểm tra, sự giám sát, duy trì và điều chỉnh đối với hoạt của đơn vị. KSNB được coi là quá trình hoặc là một hệ thống, được thiết kế bởi nhà quản lý và nhân viên, đảm bảo các mục tiêu đề ra như: bảo đảm thông tin tin cậy và dễ hiểu, bảo vệ tài sản và tài liệu, bảo đảm hiệu quả hoạt động, tuân thủ pháp luật và kiểm soát rủi ro, giảm thiểu các sai phạm trong tương lai của đơn vị.
Trong ngữ cảnh của Việt Nam, cùng với xu hướng toàn cầu hóa kinh tế thế giới, lĩnh vực kế toán kiểm toán cũng đã có những hướng tiếp cận theo xu hướng quốc tế. Năm 2001, Bộ Tài chính ban hành VSA 400- Đánh giá rủi ro và KSNB; và KSNB được hiểu là các quy định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng nhằm bảo đảm cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các quy định, để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót; để lập BCTC trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị”. Theo VSA 400, coi KSNB là một hệ thống và nhấn mạnh đánh giá rủi ro. Năm 2012, Bộ Tài chính ban hành VSA 315; theo đó KSNB được xem như là quy trình do Ban quản trị, Ban Giám đốc và các cá nhân khác trong đơn vị thiết kế, thực hiện và duy trì để tạo ra sự đảm bảo hợp lý về khả năng đạt được mục tiêu của đơn vị trong việc đảm bảo độ tin cậy của BCTC, đảm bảo hiệu quả, hiệu suất hoạt động, tuân thủ pháp luật và các quy định có liên quan. Khái niệm KSNB