Kết Quả Sản Xuất Các Ngành Kinh Tế Huyện Đồng Hỷ Giai Đoạn (2005-2007)


2.1.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật của huyện

- Hệ thống đường giao thông: Mạng lưới giao thông huyện Đồng Hỷ đã đảm bảo nhu cầu cơ bản cho việc đi lại, phát triển kinh tế - xã hội. Từ Thành phố đi qua trung tâm huyện là tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ dài 47,5 km. Hệ thống đường sông khoảng 45 km từ xã Văn Lăng đến xã Huống Thượng. Hiện nay giao thông Đồng Hỷ có tổng số 667 km. Đến nay toàn bộ 20 xã thị trấn của huyện đã có đã có đường giao thông nông thôn và trung tâm xã, ôtô đi lại thuận tiện, giao lưu kinh tế - văn hoá - xã hội, phục vụ an ninh quốc phòng của nhân dân và các dân tộc toàn huyện Đồng Hỷ. Tuy nhiên hệ thống giao thông ở khu vực vùng sâu, vùng xa còn khó khăn, chưa có đường nhựa, có những đường rải sỏi, đá ong, đường gồ ghề, lầy lội khi trời mưa cũng ảnh hưởng đến việc giao lưu kinh tế - xã hội. Do vậy cần phải có những biện pháp, giải pháp để nâng cao chất lượng hệ thống giao thông của huyện để đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế xã hội.

- Thuỷ lợi của huyện: Những năm qua bằng nguồn vốn của tỉnh hỗ trợ và ngân sách địa phương, huyện đã xây dựng được nhiều công trình thuỷ lợi lớn, vừa và nhỏ. Toàn huyện có 49 hồ chứa nước; 52 đập dâng 68 trạm bơm và 147,915 km kênh mương nội đồng được xây dựng kiên cố hoá, phân bố đều trên địa bàn huyện.

Trạm thuỷ nông: Công tác quản lý khai thác bảo vệ các công trình thuỷ lợi được đảm bảo trong mùa mưa lũ, phục vụ tưới tiêu kịp thời theo yêu cầu sản xuất. Trong vụ xuân diện tích tưới nước bằng các công trình thuỷ lợi khoảng trên 2.200 ha; vụ đông khoảng trên 1.100 ha rau màu các loại.

Tuy nhiên, ở một số xã vùng cao do địa bàn, địa hình chủ yếu là đồi núi nên hệ thống thuỷ lợi còn gặp nhiều khó khăn, hầu hết là tưới nhờ nước trời, vì vậy hạn chế cho việc luân canh cây trồng nhất là đối với cây trồng vụ đông xuân.


- Trường học trạm xá: Toàn huyện có 47 trường phổ thông, trong đó có 2 trường phổ thông trung trường trung học; 20 trường trung học cơ sở và trường toàn huyện có 22 trường mầm non. Đến nay đã có 100% số phòng học được ngói hoá, đã xoá bỏ được chế độ học ba ca, các xã và thị trấn đã có phòng học cao tầng.

Toàn huyện có 1 bệnh viện một trung tâm y tế, 2 phòng khám khu vực, 20 trạm xá, đủ điều kiện chăm sóc sức khoẻ và khám chữa bệnh cho người dân của huyện.

- Các công trình xây dựng khác: Như vấn đề nước sạch nông thôn, điện... đã được chính quyền huyện quan tâm. Tại các xã vùng cao đã ổn định được vấn đề du canh du cư, giải quyết nước sạch ở các vùng xa đô thị, đưa điện lưới quốc gia tới 20/20 xã thị trấn của huyện. Đồng hỷ có 6 tuyến lưới 35 KV và 4 tuyến 6KV, số trạm biến áp toàn huyện là 49 trạm.

Các xã và thị trấn của huyện đã có điểm bưu điện văn hoá xã, số máy điện toại của toàn huyện là hơn 6000 máy. 100% các xã huyện đã có báo đọc trong ngày.

2.1.2.3. Tình hình kinh tế của huyện

Năm 2007 sản xuất nông - lâm nghiệp thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hô trợ giá giống và đưa giống mới vào sản xuất, tích cực phòng trừ sâu, dịch bệnh hại cây trồng, vật nuôi. Vì vậy về diện tích, năng suất, sản lượng đều hoàn thành các chỉ tiêu.

Tổng sản lượng lương thực cả năm 2007 đạt 40.160 tấn/39.000 tấn KH

= 102,9%. Đã thực hiện chăm bón, thâm canh 1.100 ha chè, cải tạo 50 ha, trồng mới 120,55 ha, sản lượng chè đạt 18.500 tấn [3].

Sản lượng cây ăn quả các loại đạt 5000 tấn.

Trong chăn nuôi một số con giống như: gà, bò, lợn, ong đã có hiệu quả trong tăng năng suất, có lợi cho nhà nông. Hiện nay toàn huyện có đàn trâu:


15.789 con. Đàn bò 5.375 con; Đàn lợn 53.869 con. Tổng đàn gia cầm là 530.950 con.

Về rừng đã trồng mới được được 1.325 ha, ươm được 125 vạn hom cây giống tai vườn ươm chuẩn bị cho việc trồng rừng năm 2008 [3].

Công tác khuyến nông: Thực hiện chuyển giao kỹ thuật theo nhu cầu của nông dân tại các xã và thị trấn được 185 lớp cho gần 7.000 hộ nông dân. Tổ chức hội thảo tổng kết mô hình 15 cuộc cho gần 1000 người tham dự. Các mô hình đều thu được kết quả tốt. Đó là các mô hình: Nuôi giun quế tại Cao Ngạn, Nuôi ong nội tại xã Hoà Bình. Chăn nuôi gà an toàn sinh học tại Khe Mo. Gieo cấy giống lúa mới tại Minh Lập, Linh Sơn, Hoá Trung…

Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp - Thương mại dịch vụ: Giá trị sản lượng năm 2007 ước tính đạt 410 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch năm 2007. Trong đó giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp địa phương ước đạt 248 tỷ đồng. Hoạt động thương mại dịch vụ tiếp tục tăng trưởng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội đạt 183 tỷ đồng, trong đó của các hộ cá thể đạt 158 tỷ đồng, các doanh nghiệp 25 tỷ đồng

Công tác giao thông: Di tu bảo dưỡng trên 300 km đường giao thông, nâng cấp 59 km, đổ bê tông 17,5 km

Mặc dù nền kinh tế của huyện Đồng hỷ có những bước tăng trưởng và phát triển. Tuy nhiên huyện Đồng Hỷ vẫn là một huyện thuần nông, sản xuất mang tính tự cung tự cấp.


Bảng 2.3. Kết quả sản xuất các ngành kinh tế huyện Đồng Hỷ giai đoạn (2005-2007)


Chỉ tiêu

Năm 2005

Năm 2006

Năm 2007

So sánh (%)


Tốc độ BQ 05-07

Gi á trị (tr.đ)

Cơ c ấu (%)

Gi á trị (tr.đ)

Cơ c ấu (%)

Gi á trị (tr.đ)

Cơ c ấu (% )


06/05


07/06

Tổng giá trị gia tăng

621.047

100

772.533

100

1.133.682

100

124,4

146,7

135,6

Ngành N LTS

159.998

25,76

211.332

27,36

273.415

24,12

132,1

129,4

130,8

Ngành CN- XDựng

215.617

34,72

259.557

33,60

403.812

35,62

120,4

155,6

138

Ngành DVTM

245.432

39,52

301.644

39,05

456.456

40,26

122,9

151,3

137,1

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.

Nghiên cứu khả năng phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá ở huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên - 10

Nguồn: Phòng Thống kê huyện Đồng Hỷ

Tình hình phát triển kinh tế của huyện giai đoạn 2005-2007 được thể hiện ở bảng trên. Giá trị gia tăng của các ngành sản xuất được thể hiện tại biểu đồ sau:


500000

450000

400000

350000

Ngµnh NLTS Ngµnh CN-X D

Ngµnh TMDV

300000

250000

200000

150000

100000

50000

0

2005 2006 2007


Biểu đồ 2.1: Giá trị gia tăng của các ngành kinh tế huyện Đồng Hỷ


Qua biểu đồ trên cho thấy trong giai đoạn 2005-2007, cơ cấu kinh tế của huyện có sự chuyển dịch, tỷ trọng về ngành công nghiệp xây dựng và ngành dịch vụ tăng dần. Giá trị gia tăng của ngành thương mại dịch vụ chiếm cao nhất 40,26%. Nhưng xét về tốc độ gia tăng thì ngành công nghiệp xây dựng, xây dựng tăng cao nhất là 38% thấp nhất là ngành nông lâm thủy sản 30,8%. Sản xuất nông lâm thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong cơ cấu kinh tế của huyện, vì vậy vai trò mô hình kinh tế trang trại và hộ gia đình càng tương đối quan trọng trong sự phát triển kinh tế của huyện.

Trong những năm gần đây do hệ thống giao thông của huyện được nâng cấp và đầu tư, vị trí thuận lợi sẵn có về đường giao thông nên hoạt động thương mại dịch vụ có bước chuyển biến tích cực.

2.1.3. Những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá ở Đồng Hỷ

2.1.3.1. Những thuận lợi

Huyện Đồng Hỷ là một huyện thuộc trung du miền núi, nên được rất nhiều chương trình dự án của Nhà nước cũng như tổ chức phi chính phủ đầu tư. Điều này đã tạo điều kiện cho các hộ nông dân có điều kiện áp dụng các tiến độ khoa học vào sản xuất, nâng cao năng lực, thay đổi hệ thống cây trồng và có giá trị sản lượng cao trên một đơn vị diện tích.

- Là huyện có vị trí địa lý liền kề với thành phố Thái Nguyên, gần các trung tâm kinh tế, văn hoá của tỉnh và gần các trường đại học, trung học kỹ thuật, trung tâm nghiên cứu khoa học của vùng, có điều kiện tiếp cận với khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới để phát triển. Rất thuận lợi cho các hộ nông dân trong việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất hàng hoá của mì nh.


- Đội ngũ cán bộ của huyện nhiệt tình, năng động, lực lượng lao động đông đảo, cần cù, chịu khó lao động. Họ làm việc không quản nắng mưa để làm giàu luôn luôn nghĩ cách gia tăng thu nhập cho gia đình và đóng góp cho sự phát triển kinh tế chung của huyện.

- Đất đai của huyện tương đối đa dạng, thuận lợi cho việc phát triển nông, lâm nghiệp. Mặt khác, diện tích đất chưa sử dụng còn khá lớn có thể mở rộng để phát triển trồng trọt.

- Hệ thống sông ngòi, kênh rạch, hệ thống thuỷ lợi, hệ thống giao thông thuận tiện cho phát triển sản xuất hàng hoá. Đặc biệt nó là nhân tố quyết định cây trồng lâu năm, cây ngắn ngày và cây lâm nghiệp.

- Về giáo dục, đào tạo, y tế, thông tin liên lạc và các mặt kinh tế - xã hội khác đã và đang phát triển, đời sống người dân từng bước được cải thiện.

2.1.3.2. Những khó khăn

Điểm xuất phát của nền kinh tế còn thấp kém, phần lớn các hộ nông dân còn sản xuất tự cung tự cấp. Các hộ sản xuất hàng hoá chủ yếu phát triển ở các xã vùng sâu do đó hệ thống cơ sở hạ tầng rất kém. Thu nhập của người dân còn thấp.

Là huyện có nhiều dân tộc sinh sống, phần lớn dân cư có trình độ dân trí thấp, lao động phổ thông chiếm tỷ lệ cao, số người được đào tạo nghề còn ít, ngoài ra còn có nhiều phong tục tập quán lạc hậu, đã phần nào hạn chế khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ của người lao động.

Hệ thống cơ sở hạ tầng mặc dù đã được quan tâm và chú trọng xong ở các khu vực vùng sâu, vùng cao thì hệ thống này còn thiếu về số lượng, chưa đảm bảo về chất lượng. Hệ thống dịch vụ triển khai ứng dụng khoa học kỹ thuật như trạm giống cây trồng vật nuôi các cơ sở kỹ thuật khác chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất và đời sồng.


2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN

2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế hộ nông dân trong vùng

Với đặc điểm là một huyện sản xuất nông nghiệp là chủ yếu

Trong quá trình sản xuất phát triển kinh tế, nhất là vào thời kỳ mở cửa nền kinh tế thị trường hiện nay thì các hộ nông dân để tồn tại và phát triển đều phải hướng vào vấn đề thị trường, tức là thực hiện sản xuất hàng hoá.

Đối với huyện Đồng Hỷ, mặc dù vấn đề kinh tế thị trường còn là vấn đề mới mẻ, song sản xuất hàng hoá đã được các hộ nông dân biết đến và tiếp cận ở các mức độ khác nhau tuỳ theo cách sắp xếp tổ chức của các hộ. Có hộ sản xuất ra khối lượng hàng hoá nhỏ, ví dụ mỗi năm chỉ xuất chuồng vài tạ lợn hơi, vài tấn thóc… nhưng cũng có hộ sản xuất ra lượng hàng hoá lớn có giá trị hàng chục đến hàng trăm triệu đồng. Quy mô sản xuất, mức độ thu nhập giữa các hộ nông dân sản xuất hàng hoá trong một vùng và giữa các vùng các xã cũng có sự khác nhau, trong luận văn này chúng tôi cũng đi sâu vào nghiên cứu và phân tích.

Vì số lượng hộ nông dân sản xuất hàng hoá của huyện Đồng Hỷ là rất lớn cho nên chúng tôi không thể điều tra được toàn bộ, mà chỉ chọn ra những hộ đại diện theo phương pháp chọn điển hình của các xã thuộc các vùng khác nhau để phân tích phục vụ đề tài. Cho nên số liệu đưa ra trong luận văn có thể là chưa chính xác tuyệt đối, nhưng chắc chắn những kết luận rút ra được sẽ mang tính đại diện cho cho toàn huyện.

Dựa trên tiêu chí xếp loại hộ nông dân theo quy mô hàng hoá. Qua quá trình xét chọn chúng tôi đã chọn được 90 hộ nông dân tiêu biểu cho các loại hộ nông dân theo quy mô hàng hoá của 3 xã thuộc ba vùng của huyện Đồng Hỷ.


Bảng 2.4. Cơ cấu hộ nông dân theo quy mô hàng hoá ở các xã điều tra năm 2007


Chỉ tiêu

Hóa Thượng

Khe Mo

Hòa Bình

Tổng số

SL

( hộ)

CC

(%)

SL

( hộ)

CC

(%)

SL

( hộ)

CC

(%)

SL

( hộ)

CC

(%)

Hộ hàng hoá lớn

8

26,67

6

20,00

5

16,66

19

21,11

Hộ hàng hoá trung bình

10

33,33

11

36,67

11

36,67

32

35,56

Hộ hàng hoá nhỏ

12

40,00

13

43,33

14

46,67

39

43,33

Tổng cộng

30

100

30

100

30

100

90

100

(Nguồn: Số liệu tổng hợp từ phiếu điều tra )


Qua biểu trên ta thấy nếu nhìn vào tổng thể chung của 3 xã thì các hộ hàng hoá không có sự chênh lệch lớn, Nếu xét theo từng vùng thì có sự chênh lệch rò rệt:

Xã Hoá Thượng nằm ở vùng trung tâm của huyện, hộ hàng hoá lớn chiếm 26,67% cao hơn so với các xã. Do nằm gần trung tâm huyện, thành phần dân tộc Kinh chiếm đa số do vậy khả năng tiếp cận thị trường tốt hơn là xu hướng phát triển của các hộ.

Phía Nam là xã Khe Mo có nhiều lợi thế phát triển nông nghiệp (cây công nghiệp, cây ăn quả). Hộ hàng hoá nhỏ chiếm 43,33%, thấp nhất là hộ hàng hoá lớn chiếm 20%.

Xã Hoà Bình nằm ở vùng cao, phía Bắc của huyện, chính vì vậy hộ hàng hoá nhỏ là chủ yếu chiếm 46,67%. Ở đây các hộ nông dân chủ yếu sản xuất ra để tiêu dùng là chủ yếu.

Xem tất cả 160 trang.

Ngày đăng: 22/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí