Nghiên Cứu Về Nhu Cầu Dinh Dưỡng Của Gà Sao Nhu Cầu Năng Lượng Và Protein


trứng ấp là 77 - 83% [28]. Số trứng/mái/năm là 100 quả cao hơn nghiên cứu của Phùng Đức Tiến (2006) có số trứng/ mái/ năm là 80 quả [28].

Gà Sao đẻ trứng ăn vào trung bình khoảng 43 kg thức ăn, trong đó 12 kg trong thời kỳ phát triển và 31 kg trong thời gian đẻ trứng. Trong điều kiện nuôi thâm canh, hệ số chuyển hóa thức ăn từ 3,1 - 3,5 tương ứng gà giai đoạn 12 - 13 tuần tuổi và khối lượng sống đạt khoảng 1,2 đến 1,3 kg [113].

Theo nghiên cứu của Tunde (2006) hàm lượng protein trong trứng gà Sao dao động từ 482 đến 494 mg/g, trung bình 487 mg/g [118]. Hàm lượng các acid amin khác nhau trong trứng dao động từ 118 mg (tryptophan) đến 752 mg (glutamic acid) mỗi g N. Hàm lượng trung bình của các acid amin có chứa lưu huỳnh là 395 mg mỗi g N. Nói chung, thành phần acid amin của trứng gà Sao không bị ảnh hưởng bởi giống và điều kiện chuồng nuôi [118]. Adeyeye (2010) cho rằng trong trứng gà Sao có 83,3% khối lượng có thể ăn được, khối lượng trung bình 35,4 g[43]. Trong những phần ăn được chứa khoảng 85,5% protein trong đó có các loại acid amin mà các loại trứng gia cầm khác không có hoặc có với hàm lượng thấp, trong trứng cũng chứa 6,7 g/100 g acid béo tổng số [43].

Miloud và cs. (2010) khi nghiên cứu khả năng sinh sản của gà Sao và con lai của chúng kết quả cho thấy ở thời điểm tối đa gà có thể đẻ 21 quả/tháng. Tỷ lệ đẻ trong đàn đạt mức 5% ở tuần 37; đạt đến 71% ở tuần tuổi 61 và giảm đến 25% ở tuần thứ 77 [90]. Khối lượng của trứng biến động từ 41 đến 43,7 g. Tỷ lệ trứng có phôi là 74%, tỷ lệ nở là 73% và khối lượng sống của gà con mới nở là 26,1 g [90]. Adeyeye (2010) khi phân tích trứng gà Sao đã cho kết quả, hàm lượng protein chiếm 85,5 g/100 g, hàm lượng mỡ thô chiếm 8,1 g/100 g và hàm lượng các acid béo 6,7 g/100 g, mức năng lượng là 1769 kJ/100 g [43]. Như vậy, trứng gà Sao có hàm lượng protein khá cao, hàm lượng mỡ tương đối thấp.

Trong tổng số 1028 mg acid amin thì hàm lượng các acid amin không thay thế chiếm 529 mg, hàm lượng các acid amin thay thế chiếm 499 mg [43].


Trong đó hàm lượng các acid amin tương ứng là Lys (69,1); His (26,2); Arg (89,9); Leu (91,0); Ilu (55,5); Cys (5,5); và Met (33,9) [43]. Trong khi đó, theo tiêu chuẩn của FAO/WHO/UNU (1989) trẻ ở độ tuổi từ 2 - 5 tuổi thì nhu cầu các acid amin tương ứng là (mg/g CP) Leu (66), Ile (28), Lys (58), Met + Cys (25), His (19), tổng số (339) [66]. Trên cơ sở những thông tin đó thì trứng gà Sao có đủ các acid amin thiết yếu giống như một số loại thịt động vật khác. Trứng gà Sao cũng có thể đáp ứng nhu cầu các loại acid amin thiết yếu cho trẻ giai đoạn từ 2 - 5 tuổi.

1.2.1.3 Nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của gà Sao Nhu cầu năng lượng và protein

Theo Agwunobi và Ekpenyong (1990) hàm lượng protein thô và mức năng lượng tối ưu trong thức ăn cho gà giai đoạn sinh trưởng là 22% và 12,6 MJ ME/kg [46]. Agwunobi và Ekpenyong (1991) đã tiến hành hai thí nghiệm để xác định hàm lượng protein tối ưu và mức năng lượng cho gà Sao giai đoạn mới nở và giai đoạn kết thúc. Gà trong thí nghiệm 1 được nuôi với bốn khẩu phần cho giai đoạn bắt đầu với các hàm lượng protein thô khác nhau là 28, 26, 24, và 22%; với mức năng lượng tương ứng 13,8; 13,4; 13,0 và 12,6 MJ/kg. Thí nghiệm 2 được tiến hành trên gà giai đoạn nuôi kết thúc với các khẩu phần có hàm lượng protein là 24, 20, 16 và 12%; mức năng lượng tương ứng là 12,6; 12,2; 11,7 và 11,3 MJ/kg. Kết quả của nghiên cứu này chỉ ra rằng protein tối ưu và mức năng lượng cho giai đoạn mới nở ở vùng nhiệt đới là 22% CP và 12,6 MJ/kg ME; trong khi giai đoạn kết thúc là 16% CP và 11,7 MJ/kg ME [47].

Theo Leeson Summers (1997) thì nhu cầu năng lượng trao đổi cho gà thịt từ 2900 - 3150 kcal/kg [84]. Theo Rose (1997) nhu cầu năng lượng trao đổi cho gà thịt từ 35 ngày tuổi đến xuất chuồng là 13 - 13,4MJ/kg [111]. Mức năng lượng trao đổi đối với gà Sao nuôi thịt giai đoạn từ 0 - 4 tuần tuổi là 11,3 MJ/kg thức ăn, giai đoạn 5 - 12 tuần tuổi là 12,1 MJ/kg thức ăn [87]. Theo Moreki (2006) mức năng lượng trao đổi đối với gà Sao nuôi thịt giai đoạn từ 0 - 8 tuần


tuổi là 12,1 MJ/kg thức ăn, giai đoạn 9 tuần đến xuất chuồng (14 - 16 tuần tuổi) là 12,3 MJ/kg thức ăn [93]. Theo đề nghị của Nahashon và cs. (2005) mức năng lượng trao đổi đối với gà Sao nuôi thịt từ 0 - 5 tuần tuổi là 3000 kcal/kg thức ăn, giai đoạn 5 - 16 tuần tuổi là 3100 kcal/kg thức ăn [94]. Theo khuyến cáo của INRA (1989) mức năng lượng trao đổi đối với gà Sao nuôi thịt từ 0 - 4 tuần tuổi là 2900 kcal/kg thức ăn, giai đoạn 5 - 12 tuần tuổi là 2800 kcal/kg thức ăn [74].

Theo Ikani và Dafwang (2004) giai đoạn đầu nên cho gà ăn với khẩu phần protein cao, khẩu phần chứa 25 - 26% protein thô và mức năng lượng là 3200 kcal/kg trong 6 tuần đầu, từ 6 đến 12 tuần tuổi nên sử dụng khẩu phần có hàm lượng 20% protein thô và mức năng lượng là 3200 kcal/kg, ở độ tuổi từ 12 tuần tuổi đến khi xuất bán nên sử dụng khẩn phần có hàm lượng protein là 18% [73].

Mức protein thô trong khẩu phần đối với gà Sao nuôi thịt giai đoạn 0 - 4 tuần tuổi là 22%, giai đoạn 5 - 8 tuần tuổi là 20%, giai đoạn 9 - 12 tuần tuổi là 16% [87]. Theo Moreki (2006) mức CP trong khẩu phần đối với gà Sao nuôi thịt giai đoạn 0 - 4 tuần tuổi là 24%, giai đoạn 5 - 8 tuần tuổi là 20%, giai đoạn 9 tuần tuổi đến xuất chuồng (14 - 16 tuần tuổi) là 16% [93]. Theo đề nghị của Nahashon và cs. (2005) mức CP đối với gà Sao nuôi thịt từ 0 - 8 tuần tuổi là 24%, giai đoạn 9 - 16 tuần tuổi là 17% [94].

Theo khuyến cáo của INRA (1989) thì nhu cầu về protein thô và acid amin của gà Sao như sau [74]:

Bảng 1.6: Nhu cầu protein và acid amin của gà Sao


Chỉ tiêu (%)

0 - 4 tuần

5 - 12 tuần

13 tuần - kết thúc

CP

20

14

12

Lysine

1,20

0,55

0,48

Methionine

0,40

0,28

0,22

Methionine + Cystine

0,85

0,60

0,50

Tryptophan

0,25

0,14

0,12

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

Nghiên cứu giá trị dinh dưỡng của một số loại thức ăn trong chăn nuôi gà Sao giai đoạn sinh trưởng ở Đồng bằng Sông Cửu Long - 4

Nguồn: INRA, 1989 [74].


Bảng 1.7: Nhu cầu cho gà Sao giai đoạn gà giò


Tuổi tuần

Protein (%)

Năng lượng (Kcal ME

/kg)

Lượng thức ăn /ngày (g/con)

Lys (g)

Met (g)

Met + Cys (g)

Ca (đơn vị)

P

(đơn vị)


0 - 5

25,5

3200

25

- 30

1,38

0,55

1,00

1,00

0,39

5 - 8

20

3100

50

- 60

0,99

0,42

0,88

0,90

0,35

8 - 12

18

3100

70

- 80

0,79

0,33

0,66

0,80

0,33

Nguồn: Tewe, 1983 [117]

Theo Leeson và Summers (1997) yêu cầu về thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần của gà Sao được thể hiện ở bảng 1.8 [84].

Bảng 1.8: Thành phần dinh dưỡng của khẩu phần cho gà Sao qua các giai đoạn



(0 - 4 tuần)

(5 - 8 tuần)

(9 tuần - kết thúc)


CP (%)

24 - 25

20

15

18

ME (MJ/kg)

12,1

12,1

11,3

12,1

Ca (%)

1,2

1,00

0,80

3,00

P (%)

0,50

0,50

0,40

0,40

Lysine (%)

1,30

1,20

0,82

0,83

Methionine (%)

0,52

0,45

0,34

0,55

Chỉ tiêu Khởi động

Giai đoạn sinh trưởng

Gà đẻ


Nguồn: Leeson và Summers, 1997 [84]

Trong giai đoạn sinh sản, nếu nhiệt độ trong chuồng là 120C, cần cho gà ăn thức ăn chứa 2700 - 2750 kcal (11,3 - 11,5 MJ) và 17% protein thô [84]. Khi nuôi gà mái sinh sản cần chú ý trước khi đẻ trứng không được cho gà mái ăn quá nhiều. Trước khi đẻ trứng, nếu gà béo quá, thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến năng suất trứng. Khi gà đẻ trứng đến thời điểm đỉnh cao, cần giảm khẩu phần ăn dần dần, để giảm tỷ lệ gà chết và tăng tỷ lệ phôi trong trứng [84]. Để kiểm tra mức tăng trọng hàng tuần của gà, trong cùng một ngày và cùng một thời điểm, chọn ngẫu nhiên khoảng 100 con gà để cân cá thể và điều chỉnh khẩu phần ăn khi cần


thiết. Khẩu phần ăn cần được thiết lập phụ thuộc vào thể trọng, nhiệt độ chuồng nuôi.

Nhu cầu về khoáng


Theo khuyến cáo của INRA (1989) thì nhu cầu về khoáng của gà Sao như sau [74]:

Bảng 1.9: Nhu cầu về khoáng của gà Sao


Chỉ tiêu (%)

0 - 4 tuần

5 - 12 tuần

13 tuần - kết thúc

Ca

0,85

0,80

0,50

P tổng số

0,65

0,60

0,50

P hữu dụng

0,40

0,35

0,25

Na

0,17

0,17

0,17

Clo

0,15

0,15

0,15

Nguồn: INRA, 1989 [74].


1.2.2 Tình hình nghiên cứu và chăn nuôi gà Sao ở trong nước


1.2.2.1 Nghiên cứu về sinh trưởng của gà Sao


Ở Việt Nam, gà Sao xuất hiện từ thế kỷ 19 do người Pháp nhập vào nuôi làm cảnh. Đến năm 2002, Trung tâm Nghiên cứu Gia cầm Thụy Phương nhập 3 dòng gà Sao từ Viện Nghiên cứu Tiểu Gia súc Gödöllő - Hungary gồm dòng lớn, dòng trung và dòng nhỏ [28]. Nghiên cứu bước đầu 3 dòng gà Sao cho thấy rằng, 3 dòng gà Sao được nhập từ Hungary có đặc điểm ngoại hình đặc trưng và đồng nhất, gà con 01 ngày tuổi có màu lông cánh sẻ, khi trưởng thành gà Sao có đặc điểm là bay giỏi như chim, lông màu xám ghi, được điểm các vệt trắng nhạt, thân hình thoi, đầu không có mào thay vào đó là mấu sừng [28][48][106]. Gà Sao dòng lớn có khối lượng cơ thể vượt trội so với dòng nhỏ và dòng trung. Cả 3 dòng gà Sao có khả năng thích nghi tốt với điều kiện Việt Nam, thể hiện tỷ lệ nuôi sống ở giai đoạn gà con, dò, hậu bị đạt từ 97,0 - 99,9%, giai đoạn sinh sản đạt 90,1 - 94,7% [29][30].


Gà Sao nuôi lấy thịt từ 1- 12 tuần tuổi, dòng lớn có khả năng sinh trưởng cao nhất đạt 1880 g/con, cao hơn dòng trung (1380 g/con) và dòng nhỏ (1368 g/con) [41]. Tỷ lệ thịt xẻ của 3 dòng gà Sao đạt từ 76,6 đến 77,1%; tỷ lệ thịt đùi và thịt ngực đạt từ 51,1 đến 51,7%. Tỷ lệ protein trong thịt đùi là 21,1% và thịt ngực là 24,3% [41].

Hiện nay, gà Sao đã được Viện Chăn nuôi chuyển giao nuôi rộng rãi ở nhiều địa phương, nhất là ở các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi [2]. Ở Đồng bằng Sông Cửu Long, một số nghiên cứu trên gà Sao cho kết quả tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng dòng trung nuôi đến 16 tuần tuổi là 3,34 - 3,41 kg và 2,90 - 3,43 kg; tỷ lệ nuôi sống giai đoạn 6 - 16 tuần tuổi đạt 100% [9][32]. Tỷ lệ thịt ức 24,1 - 25,5%; tỷ

lệ thịt đùi 12,5 - 12,9% [32].


Nguyễn Đức Hùng (2008) nghiên cứu khả năng thích nghi, sinh trưởng và sức sản xuất của gà Sao nuôi tại Thái Nguyên cho thấy, gà Sao có khả năng chống chịu bệnh tốt ở giai đoạn 0 - 12 tuần tuổi tỷ lệ nuôi sống đạt 97,0% [12]. Chúng ít bị các bệnh truyền nhiễm mà các giống gà khác hay bị lây nhiễm. Trong điều kiện cho ăn tự do, khối lượng trung bình của gà lúc 2 tuần tuổi đã tăng 2,5 lần so với sơ sinh; lúc 3 tuần tuổi tăng 4,64 lần so với sơ sinh, lúc 10 tuần tuổi tăng 44,20 lần so với sơ sinh và ở 12 tuần tuổi, khối lượng trung bình của gà Sao đạt tới 1624 g/con, tăng gấp 57,95 lần so với sơ sinh [12].

Nguyễn Đình Thái (2009) khi nghiên cứu khả năng sản xuất của giống gà Sao tại Bình Định, kết quả cho thấy khối lượng cơ thể gà lúc 12 tuần tuổi đạt từ 1402 - 1817g [31]. Khả năng thu nhận thức ăn trong giai đoạn từ 1 - 12 tuần tuổi từ 2981 - 3263 g, tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng của gà Sao đạt từ 2,17 kg đến 2,36 kg. Tỷ lệ nuôi sống đạt từ 92,0 - 97,9%, chất lượng thịt với tỷ lệ thịt đùi, thịt ngực đạt từ 51,3 - 52,8%, tỷ lệ mỡ bụng từ 0,8% đến 2,4% [31].

Kết quả nghiên cứu trên đàn gà Sao nuôi thịt (Phùng Đức Tiến, 2006) cho thấy khối lượng gà lúc 12 tuần tuổi đạt 1,41 - 1,89 kg, tiêu tốn thức ăn cho 1 kg


tăng trọng là 2,34 - 2,53 kg [28]. Tỷ lệ mỡ bụng của gà Sao thấp (0,6 - 1,1%). Các acid amin không thay thế trong thịt, đặc biệt là acid amin đánh giá độ ngọt của thịt là aspartic và glutamic rất cao [28][29].

Tỷ lệ thân thịt của gà Sao lúc 12 tuần tuổi đạt trung bình 79,5%; tỷ lệ thịt đùi cộng với thịt ngực khá cao (43,2%), cao hơn nhiều so với gà Lương Phượng và một số giống gà của Việt Nam [28]. Đây là ưu thế về khả năng sản xuất thịt của gà Sao. Các nghiên cứu khác cho biết, tỷ lệ thịt đùi cộng với ngực của gà Lương Phượng đạt 34,7% [36]; của gà Ri trống đạt 38,2% và gà Ri mái đạt 34,8% [7]; của gà trống Đông Tảo là 41,5%, gà mái Đông Tảo là 41,0% [21]. Như vậy, so với gà Lương Phượng, tỷ lệ thịt đùi và ngực của gà Sao cao gấp gần 1,3 lần. Trong khi đó, tỷ lệ mỡ bụng của gà Sao chỉ 1%, thấp hơn nhiều so với gà Lương Phượng ở 10 tuần tuổi [21]. Đoàn Xuân Trúc và cs. (2000) cũng cho biết, tỷ lệ mỡ bụng của gà Kabir lúc giết thịt đạt tới 2,2% [36].

Khi nghiên cứu về khả năng sinh trưởng của gà Sao, Nguyễn Đức Hùng (2008) cho rằng tốc độ sinh trưởng nhanh khi nuôi trong điều kiện cho ăn tự do và nuôi tập trung [12]. Gà Sao lúc 1 tuần tuổi đạt 70 g; đến 6 tuần tuổi đã đạt 594 g và đến 12 tuần tuổi đạt 1624 g, khả năng ăn vào thức ăn của gà tăng liên tục theo lứa tuổi. Gà Sao ở 12 tuần tuổi nhu cầu thức ăn hàng ngày là 50 g/ngày (4200 g/84 ngày), ở độ tuổi lớn hơn ăn vào thức ăn/gà/ngày cũng chỉ đạt 80 g [12], thấp hơn nhiều so với các giống gà chuyên thịt và kiêm dụng khác (lượng thức ăn ăn vào trung bình/gà/ngày trong giai đoạn sinh trưởng của gà V135 và AV35 từ 97 - 100 g của gà Ross - 208 từ 92 - 97 g [27], của gà Lương Phượng 10 tuần tuổi là 133 g [68]. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng có xu hướng tăng liên tục theo lứa tuổi. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng tăng từ 1,65 kg (giai đoạn từ 0 - 1 tuần tuổi) tăng lên 2,81 kg (từ 11 - 12 tuần tuổi). Tổng hợp cả quá trình nuôi dưỡng từ 0 - 12 tuần tuổi, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng là 2,64 kg. Mức này thấp hơn gà Đông Tảo từ 0,34 - 0,50 kg [21]; thấp hơn gà Tam Hoàng 0,65 kg [40].


1.2.2.2 Nghiên cứu về sinh sản của gà Sao


Gà Sao nuôi sinh sản đến 44 tuần, ở dòng lớn có tỷ lệ đẻ và năng suất trứng 52,4% và 161,5 quả/mái; gà Sao dòng trung có tỷ lệ đẻ 52,3% và 161,1 quả/mái và gà Sao dòng nhỏ tỷ lệ đẻ 39,9% và 122,8 quả/mái. Trứng gà Sao dòng nhỏ và dòng trung có tỷ lệ phôi khá cao đạt 90,3 - 93,7%; trứng gà Sao dòng lớn có tỷ lệ phôi thấp chỉ đạt 63,6%, tỷ lệ nở cao nhất ở dòng nhỏ (80,9%), ở dòng trung là 61,1% và dòng lớn là 53,8% [29].

Phùng Đức Tiến và cs (2006) [29] đã nghiên cứu chọn lọc nâng cao năng suất 3 dòng gà Sao qua 3 thế hệ tại Trung tâm Nghiên cứu Gia cầm Thụy Phương cho thấy trên đàn gà sinh sản, cả 3 dòng gà Sao ổn định về ngoại hình, màu sắc lông. Kết quả cho thấy tỷ lệ nuôi sống đạt khá cao, giai đoạn gà con đạt 97,0 - 98,7%; giai đoạn gà dò 98,3 - 100% và giai đoạn gà sinh sản đạt 95,5 - 100%. Tỷ lệ đẻ, năng suất trứng thế hệ sau tăng hơn so với thế hệ trước ở thế hệ II và III của dòng nhỏ có năng suất trứng/mái cao hơn thế hệ I là 32,3 - 32,8 quả; tiêu tốn thức ăn/10 trứng giảm từ 2,59 - 1,73 kg [29]. Kết quả tương ứng khi nghiên cứu trên dòng trung là 16,9 - 17,5 quả, tiêu tốn thức ăn/10 trứng 2,36 - 2,12 kg; dòng lớn là 13,7 - 17,7 quả, tiêu tốn thức ăn/10 trứng là 2,26 - 1,9 kg. Tỷ lệ nở của trứng gà Sao tăng dần qua các thế hệ. Riêng dòng lớn có tỷ lệ phôi và tỷ lệ nở tăng lên rõ rệt. Tỷ lệ phôi thế hệ III tăng hơn thế hệ I là 12,9%. Tỷ lệ nở /tổng trứng ấp tăng 15,0% [29].

Kết quả nghiên cứu của Đặng Hùng Cường (2011) năng suất trứng của gà mái ở 21 - 40 tuần tuổi dao động trong khoảng từ 68,6 đến 81 quả; tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng ở 21 - 40 tuần tuổi từ 1,28 đến 1,59 kg; tỷ lệ ấp nở đạt từ 68,4 đến 86,2% [9].

Theo Phùng Đức Tiến và cs. (2006) gà Sao đẻ 5% lúc 207 - 221 ngày. Khối lượng gà mái lúc 38 tuần tuổi là 2,16 kg đối với dòng nhỏ, 2,20 kg với dòng trung và 2,42 kg với dòng lớn. Sau 24 tuần đẻ, năng suất trứng dòng nhỏ đạt 99 quả/mái, dòng trung là 51 quả/mái và dòng lớn là 56 quả. Khối lượng

Xem tất cả 131 trang.

Ngày đăng: 11/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí