Nghiên cứu đề xuất quy hoạch sử dụng đất xã Trung Lý, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2013 - 2020 - 2



ĐẶT VẤN ĐỀ


Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì có thể thay thế được, là môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng. Sử dụng tài nguyên đất đai một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả là một trong những vấn đề được các nước cũng như Việt Nam đặc biệt quan tâm hiện nay. Đất đai bao gồm các yếu tố tự nhiên và chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế, tâm lý xã hội và ý thức sử dụng đất của mỗi con người, mỗi địa phương, vùng, miền và từng quốc gia. Đất đai có giới hạn về không gian nhưng vô hạn về thời gian sử dụng nếu như chúng ta biết khai thác hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững.

Trong những năm vừa qua, cùng với sự đổi mới chung của đất nước, nông nghiệp, nông thôn nước ta đã và đang đạt được những thành tựu quan trọng, đời sống của nông dân ngày càng được cải thiện, bộ mặt nông thôn đã có nhiều khởi sắc. Trong Nghị quyết Đại hội X của Đảng cũng đã xác định “Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, thôn bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh”. Để thực hiện tốt theo Nghị quyết của Đảng đòi hỏi cả hệ thống chính trị phải cùng vào cuộc; từng bước cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng vào các quy hoạch, kế hoạch, chương trình dự án làm cơ sở để triển khai thực hiện hiệu quả, đặc biệt cấp cơ sở, cấp trực tiếp triển khai thực hiện.

Trong thực tế, quy hoạch sử dụng đất các cấp là cơ sở để chính quyền tổ chức quản lý, sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững. Xác định tầm quan trọng của vấn đề này, đồng thời để cụ thể hoá Luật đất đai và các luật có liên quan, Chính phủ và các Bộ, ngành đã kịp thời ban hành nhiều văn bản pháp lý làm cơ sở để các cấp, tiến hành quy hoạch sử dụng đất như: Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/ 8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; Thông tư số 19/2009/TT-BTNMT ngày 02/11/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường qui định chi tiết về lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và nhiều văn bản phát lý khác có liên quan.



Trung lý là xã vùng cao biên giới, nằm về phía Đông Nam của huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá. Toàn xã có 16 bản với tổng số 5.493 nhân khẩu. Tổng diện tích tự nhiên là 19.790,11 ha (chiếm 24,2% diện tích tự nhiên của huyện). Trong đó, diện tích đất nông nghiệp là 18.527,13 ha. Nhân dân trong xã sống chủ yếu bằng nghề nông, lâm nghiệp; do vậy, việc sử dụng đất hợp lý, hiệu quả có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Bên cạnh đó, thương mại dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp đang từng bước phát triển mạnh, do có lợi thế về giao thông đường bộ (Quốc lộ 520) và đường thuỷ (Sông Mã), nên nhu cầu sử dụng đất của các ngành cũng tăng mạnh. Trước tình hình đó, công tác quản lý, sử dụng đất đai phải được quy hoạch hoá, làm cơ sở pháp lý để phân bổ đất đai cho các nhu cầu phát triển của xã, đảm bảo phát triển hài hoà giữa các lĩnh vực kinh tế - văn hoá - xã hội - an ninh - quốc phòng và cảnh quan môi trường trên địa bàn xã.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 159 trang tài liệu này.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu đề xuất quy hoạch sử dụng đất hợp lý, có cơ sở khoa học cho xã Trung Lý sẽ góp phần quan trọng trong việc quản lý chặt chẽ tài nguyên đất, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, các ngành, các đơn vị, các bản tập trung mở rộng sản xuất, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội; xoá đói, giảm nghèo nhanh, bền vững tại xã biên giới đặc biệt khó khăn của tỉnh Thanh Hoá. Với những lý do nêu trên và yêu cầu của một Luận văn tốt nghiệp cao học tại Trường Đại học Lâm nghiệp, tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu đề xuất quy hoạch sử dụng đất xã Trung Lý, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2013 - 2020“. Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở để chính quyền và nhân dân xã Trung Lý, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá tổ chức quản lý và sử dụng đất khoa học, có hiệu quả hơn trong thời gian tới.


Nghiên cứu đề xuất quy hoạch sử dụng đất xã Trung Lý, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2013 - 2020 - 2


Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


1.1. Nhận thức chung về QHSDĐ

QHSDĐ có vai trò và chức năng vô cùng quan trọng, nó tạo ra những điều kiện cần thiết để tổ chức quản lý, sử dụng đất có hiệu quả cao, bền vững. QHSDĐ là một hoạt động định hướng nhằm sắp xếp, bố trí sử dụng đất một cách hợp lý vào thời điểm hiện tại và phù hợp với mục tiêu trong tương lai. QHSDĐ là tiền đề vững chắc cho bất kỳ giải pháp nào nhằm phát huy đồng thời những tiềm năng to lớn, đa dạng và các điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội khác. QHSDĐ là tiến hành phân chia, sắp xếp hợp lý về mặt không gian và bố trí cân đối các hạng mục sản xuất kinh doanh theo các cấp quản lý sản xuất khác nhau, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu về mặt Nông lâm sản cho nền kinh tế địa phương và Quốc dân. Đặc biệt trong sản xuất Nông - lâm nghiệp QHSDĐ có nhiệm vụ quy hoạch sử dụng các loại đất Nông - lâm nghiệp, các phương pháp thâm canh trong Nông - lâm nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng đất và các giải pháp bảo vệ đất chống xói mòn, bảo vệ rừng và môi trường sinh thái.

QHSDĐ là một bộ phận cấu thành của quy hoạch tổng thể phát triển nông thôn. Do đó, công tác QHSDĐ cần có sự phối hợp chặt chẽ, lồng ghép với quy hoạch phát triển nông thôn mới nhằm tránh sự chồng chéo, hạn chế lẫn nhau giữa các ngành, các lĩnh vực. Thực chất của công tác quy hoạch là tổ chức về không gian và thời gian phát triển cho một ngành hoặc một lĩnh vực sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể.

Vấn đề QHSDĐ có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền kinh tế xã hội. Nếu QHSDĐ hợp lý thì nền kinh tế xã hội sẽ phát triển bền vững, trong điều kiện ngược lại thì sự phát triển của nền kinh tế xã hội sẽ gặp những cản trở, khó khăn. Ngày nay, trong điều kiện nhu cầu của xã hội về đất canh tác, đất xây dựng cơ sở hạ tầng,… ngày càng cao thì vấn đề QHSDĐ một cách bền vững càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết.



1.2. Trên thế giới

1.2.1. Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở khoa học của QHSDĐ cấp vi mô

Khoa học về đất đai đã trải qua hơn một trăm năm nghiên cứu và phát triển, những thành tựu nghiên cứu về phân loại đất và xây dựng bản đồ đất đã được sử dụng làm cơ sở quan trọng cho việc tăng năng suất và sử dụng đất đai một cách hiệu quả.

Sự phát triển của QHSDĐ gắn liền với sự phát triển kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Từ thế kỷ thứ XIX, khi nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa bắt đầu phát triển với tốc độ mạnh do ngành công nghiệp và giao thông vận tải phát triển, nên nhu cầu khối lượng gỗ ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương của chế độ phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá Tư bản chủ nghĩa. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý luận QHSDĐ đã được hình thành trong hoàn cảnh như vậy và đã được đề cập đến, được thực hiện một cách triệt để, nghiêm túc, nhằm thoả mãn nhu cầu của thực tế khách quan xã hội loài người. Thời kỳ này đã có những công trình nghiên cứu về QHSDĐ, phần lớn các công trình nghiên cứu này đều xuất phát tại Mỹ [58].

Tại Mỹ, năm 1929 bang Wiscosin đã ra đạo luật sử dụng đất đai trong đó có quy định nguyên tắc sử dụng đất Lâm nghiệp, tiếp theo là xây dựng kế hoạch sử dụng đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin, kế hoạch này đã xác định các diện tích cho sử dụng Lâm nghiệp, Nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí [36]. Năm 1966 Hội đất học và Hội nông dân học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng QHSDĐ. Tại Đức tác giả Haber năm 1972 đã xuất bản tài liệu “Khái niệm về sử dụng đất khác nhau, đây được coi là lý thuyết sinh thái về quy hoạch sử dụng đất dựa trên quan điểm về mối quan hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ sinh thái cũng như sự ổn định của chúng với năng suất và khả năng điều chỉnh. Từ năm 1967 Hội đồng Nông nghiệp Châu Âu đã phối hợp với tổ chức FAO tổ chức nhiều hội nghị về phát triển nông thôn và QHSDĐ [58]. Các hội nghị này khẳng định rằng quy hoạch vùng nông thôn trong đó quy hoạch các ngành sản xuất như Nông nghiệp, Lâm nghiệp, chăn nuôi, chế biến nhỏ,… cũng như quy hoạch cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông phải dựa trên cơ sở quy hoạch



đất đai. Năm 1971 và 1975 các chuyên gia tư vấn họp tại Rome (Italia) và Geneve (Thuỵ sỹ) để thảo luận về phương pháp luận quy hoạch nông thôn. Nội dung các cuộc thảo luận đã đề cập đến các phương pháp cùng tham gia trong quy hoạch cấp vi mô [17].

Những kết quả phân tích hệ thống canh tác tại Châu á, châu Phi và Nam Mỹ đã xác nhận rằng phân tích hệ thống canh tác là một công cụ quy hoạch, lập kế hoạch sử dụng đất cấp địa phương. Năm 1990, Luning đã nghiên cứu kết hợp đánh giá đất đai với phân tích hệ thống canh tác cho QHSDĐ [59].

Trong nghiên cứu các hệ thống canh tác, Robert Chamers (1985) đã đưa ra các cách tiếp cận sau [36], [22], [23]: (1) Tiếp cận Sondeo của Peter Hildeband - (Hilđebran, 1981); (2) tiếp cận “Nông thôn - trở lại - về nông thôn” của Robert Rhoades - (Rhoades, 1982); (3) cách sử dụng cụm kiến nghị của L.W. Harrington (Harrington, 1984); (4) cách tiếp cận theo tài liệu của Robert Chamberrs: “Nghiên cứu nông nghiệp cho nông dân nghèo”; (5) cách tiếp cận “chuẩn đoán và thiết kế” của ICRAF (Rainree) và (6) Chương trình nông nghiệp quốc tế - bản phân tích theo vùng các hệ canh tác của trường Đại học Cornel (Garrett và đồng tác giả, 1987).

Trên đây là những nghiên cứu, những tài liệu liên quan đến vấn đề sử dụng đất đai, hệ thống canh tác và hệ thống cây trồng, hệ thống sử dụng đất cùng phương pháp tiếp cận nông thôn mới trên thế giới đã được nghiên cứu và áp dụng ở nhiều quốc gia, có thể xem là cơ sở lý luận và thực tiễn để vận dụng trong quy hoạch sử dụng đất vi mô.

1.2.2. Những nghiên cứu liên quan đến sử dụng đất cấp vi mô có sự tham gia của người dân

Vấn đề quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia của người dân đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới, trong nước nghiên cứu và công bố kết quả.

Về QHSDĐ có sự tham gia của người dân được đề cập khá đầy đủ và toàn diện trong tài liệu hội thảo VFC-TV Dresden, 1998 của Dr. Habil Holm Uibrig Associate selection concerus for Vietnam. Tác giả đã đề cập tới [57]: (1) Quy hoạch



rừng; (2) Những nhận xét về phát triển nông thôn; (3) QHSD Đ; (4) Phân cấp hạng đất; (5) Phương pháp tiếp cận mới trong QHSDĐ.

Cũng trong chương trình hội thảo quốc tế tại Việt Nam (1998) - Tài liệu hội thảo về QHSDĐ của FAO đã đề cập một cách khá chi tiết khái niệm về sự tham gia và đề xuất các chiến lược QHSDĐ và giao đất cấp làng bản [60].

Vấn đề lập kế hoạch sử dụng và quản lý tài nguyên đất cũng được các nhà khoa học và các quốc gia đặc biệt quan tâm. Năm 1990 tổ chức FAO đã xuất bản cuốn Phát triển hệ thống canh tác (Farming system development) [20]. Trong đó đã khái quát phương pháp tiếp cận nông thôn trước đây là phương pháp tiếp cận một chiều (từ trên xuống), không phát huy được tiềm năng nông trại và cộng đồng nông thôn. Qua nghiên cứu và thực tiễn ấn phẩm đã đưa ra phương pháp tiếp cận mới - phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân, nhằm phát triển các hệ thống trang trại và cộng đồng nông thôn trên cơ sở bền vững. Về sau, những nghiên cứu về quy hoạch và quản lý rừng cộng đồng ở Nepal đã chứng tỏ ưu thế của cách tiếp cận mới, đó là cách tiếp cận lấy người dân làm trung tâm trong công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển của cộng đồng.

Dựa trên những kết quả thực tiễn ở Ấn độ. Giai đoạn từ năm 1970 đến đầu năm 1980, ở nhiều Quốc gia trên thế giới, các phương pháp điều tra, đánh giá truyền thống dần được thay thế bằng các phương pháp điều tra đánh giá có sự tham gia của người dân (PRA) và đánh giá nhanh nông thôn (RRA). Phương pháp này nhanh chóng thể hiện được ưu thế và hiệu quả nổi trội của nó trong việc điều tra, đánh giá, lập kế hoạch, QHSDĐ nói chung và đất Nông Lâm nghiệp nói riêng [58].

Ngày nay, PRA và RRA đã dần dần được hoàn thiện và thể hiện được vai trò không thể thiếu trong mọi hoạt động lập kế hoạch, QHSDĐ.

Việt Nam, có thể áp dụng những thành tựu nghiên cứu về QHSDĐ trên thế giới, nhưng phải thực hiện một cách linh hoạt cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể đối với từng cộng đồng nông thôn. QHSDĐ phải dựa trên nền tảng, kết hợp với quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở từng địa phương. Trong đó, cần thực hiện quy hoạch từ trên xuống bằng các định hướng chiến lược, đồng thời ưu tiên nhu cầu và



phạm vi của cộng đồng thông qua quy hoạch phát triển - xây dựng kế hoạch cấp thôn bản.

- Hệ thống canh tác trên đất dốc, quan điểm sử dụng đất bền vững là những giải pháp quan trọng và là cơ sở cho QHSDĐ cấp vi mô.

1.3. Quy hoạch sử dụng đất ở Việt nam

1.3.1. Một số nghiên cứu về cơ sở thực tiễn của QHSDĐ

- Ở Việt nam, từ thế kỷ 15 Lê Quý Đôn đã tổng kết kinh nghiệm của mình về canh tác nông nghiệp trong “Vân đài loại ngữ” Ông đã khuyên nông dân áp dụng luân canh với cây họ đậu để tăng năng suất lúa trong sản xuất nông nghiệp.

- Trong thời kỳ Pháp thuộc, các công trình nghiên cứu đánh giá và QHSDĐ đã được các nhà khoa học Pháp nghiên cứu phát triển với quy mô rộng lớn.

- Giai đoạn 1955 - 1975, công tác điều tra phân loại đất đai đã được tổng hợp một cách có hệ thống trong phạm vi toàn miền Bắc. Nhưng đến sau năm 1975 các số liệu nghiên cứu về phân loại đất mới được thống nhất. Xung quanh chủ đề phân loại đất đã có nhiều công trình khác nhau triển khai thực hiện trên các vùng sinh thái (Ngô Nhật Tiến, 1986; Đỗ Đình Sâm, 1994...). Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên chỉ mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu cơ bản, thiếu biện pháp đề xuất cần thiết cho việc sử dụng đất, công tác điều tra phân loại đã không gắn liền với công tác sử dụng đất. Những thành tựu về nghiên cứu đất đai trong giai đoạn trên là cơ sở quan trọng góp phần vào việc bảo vệ, cải tạo, quản lý và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả trên toàn Quốc. Tuy nhiên, ở nước ta vấn đề QHSDĐ cấp vi mô có sự tham gia của người dân mới được nghiên cứu ứng dụng trong những năm gần đây. Cấp vi mô thực chất đã được đề cập tới trong nhiều công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau; tuy vậy, cho đến nay những nghiên cứu trên vẫn còn hết sức tản mạn và chưa có sự phân tích tổng hợp thành cơ sở lý luận để có thể áp dụng vào thực tiễn.

- Công trình “Sử dụng đất tổng hợp và bền vững” của tác giả Nguyễn Xuân Quát (1996) [29] đã phân tích tình hình sử dụng đất đai cũng như mô hình sử dụng đất tổng hợp bền vững, mô hình khoanh nuôi và phục hồi rừng ở Việt Nam. Đồng



thời đề xuất tập đoàn cây trồng thích hợp cho các mô hình sử dụng đất tổng hợp bền vững.

- Tài liệu về ''Đất rừng Việt Nam'' [8], Tác giả Nguyễn Ngọc Bình đã đưa ra những quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng trên cơ sở những đặc điểm cơ bản của đất rừng Việt Nam.

- Về luân canh, tăng vụ, trồng xen, trồng gối vụ để sử dụng hợp lý đất đai đã được nhiều tác giả như: Phạm Văn Chiểu 1964; Lê Trọng Cúc 1971; Bùi Huy Đáp 1977; Nguyễn Ngọc Bình 1987; Vũ Tuyên Hoàng 1987; Bùi Quang Toản 1991 đề cập tới nhằm mục đích lựa chọn hệ thống cây trồng phù hợp trên đất dốc vùng đồi núi phía Bắc Việt Nam [56].

- Năm 1996, công trình QHSDĐ Nông nghiệp ổn định ở vùng trung du và miền núi nước ta đã được tác giả Bùi Quang Toản đề xuất sử dụng đất Nông nghiệp vùng đồi núi và trung du [31]. Hà Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997) trong chương trình tập huấn hỗ trợ Lâm nghiệp xã hội của trường Đại học Lâm nghiệp đã đưa ra khái niệm về hệ thống sử dụng đất và đề xuất một số hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất bễn vững trong điều kiện Việt Nam [23].

- Nghiên cứu hệ thống canh tác ở nước ta được đẩy mạnh hơn từ sau khi đất nước thống nhất, Tổng cục địa chính [38] đã tiến hành quy hoạch đất 3 lần vào các năm 1978, 1985 và 1995. Căn cứ vào điều kiện đất đai, ngành Lâm nghiệp đã phân chia đất đai toàn quốc thành 7 vùng sinh thái khác nhau.

- Vấn đề hệ thống chính sách và những quy định về quản lý và sử dụng đất đai, cũng như hệ thống quản lý sử dụng đất các cấp được đề cập khá đầy đủ và chi tiết trong báo cáo tóm tắt khảo sát đợt 1 về LNXH, nhóm luật và chính sách 1998 của trường Đại học Lâm nghiệp [39]; Tài liệu tập huấn “Những quy định và chính sách quản lý sử dụng đất” của Trần Thanh Bình (1997) [9]; Tài liệu tập huấn “Các chính sách có liên quan đến phát triển kinh tế trang trại” của Trường Đại học lâm nghiệp (1997) [40].

- Về việc sử dụng đất gắn với việc bảo vệ độ phì nhiêu của đất và môi trường ở vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam, Lê Vĩ (1996) đã nêu ra [53]: (1) Tiềm

Xem tất cả 159 trang.

Ngày đăng: 24/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí