VQG Ba Vì đã thu hút được rất nhiều đầu tư từ các Doanh nghiệp tham gia phát triển du lịch nên sự đầu từ về cơ sở hạ tầng ngày một tăng. Hoạt động du lịch đã góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện và tăng thu nhập cho người dân.
Khu cốt 400m diện tích 60 ha thuộc độ cao 400 m so với mực nước biển, nằm trên đường trục chính lên đỉnh núi Ba Vì, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch sinh thái bao gồm các công trình do Vườn đầu tư xây dựng, cải tạo đến nay có 6 nhà khách với tổng số khoảng 80 gường; một sân ten nít; 2,2km đường trục Vườn thực vật, nhà ăn 100m2; giải khát 60 m2; nhà hội thảo 200 chỗ ngoài ra còn có 2 km đường đi bộ trong vườn thực vật, các bãi cỏ, sân đốt lửa trại…và phế tích các công trình xây dựng, biệt thự từ thời Pháp thuộc.
Để du lịch ở VQG Ba Vì phát triển bền vững, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của địa phương, cấp uỷ, chính quyền các cấp ở huyện Ba Vì luôn xác định phải gắn du lịch với bảo tồn các giá trị văn hóa - lịch sử - cách mạng truyền thống, giữ gìn môi trường sinh thái bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Trên cơ sở sự quan tâm của thành phố Hà Nội, với mục đích mang lại các dịch vụ tốt nhất cho du khách đến tham quan nghỉ dưỡng, huyện Ba Vì đã phối hợp với các đơn vị chức năng và các doanh nghiệp đầu tư, phát triển nhiều tuyến giao thông du lịch như: xây dựng tuyến đường 415 đi đền Hạ, đền Trung dài 6,8 km với số vốn 64 tỷ đồng; nâng cấp tuyến đường từ Vườn quốc gia Ba Vì đến Khu du lịch Thiên Sơn - Suối Ngà, Long Việt…
Để tăng sức thu hút của các điểm du lịch, các đơn vị kinh doanh du lịch ở VQG Ba Vì đã thường xuyên tôn tạo những công trình tôn giáo, tín ngưỡng; nâng cấp nhà ăn, phòng nghỉ, khách sạn, khu vui chơi giải trí... Việc quản lý các hoạt động doanh nghiệp và kinh doanh các khu, điểm du lịch, lữ hành, vận chuyển khách du lịch trên địa bàn huyện đã có nhiều chuyển biến và đi vào nề
nếp. Song song với việc đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch; những năm trở lại đây, các cấp chính quyền, cơ quan chức năng và ban quản lý các điểm du lịch cũng đặc biệt chú trọng đến công tác đảm bảo vệ sinh môi trường, an ninh trật tự ở các điểm du lịch qua đó tạo tâm lý yên tâm, thoải mái cho du khách thập phương khi đến với VQG Ba Vì.
3.2.6. Những khó khăn trong hoạt động phát triển du lịch và khai thác bền vững các sản phẩm từ rừng
VQG Ba Vì tuy có tài nguyên thiên nhiên phong phú, là mảnh đất đẹp và hoang sơ gắn liền với những dấu ấn ngàn năm của lịch sử đã đem lại lợi ích kinh tế rất lớn cho huyện Ba Vì. Nhưng việc cơ cấu, quy hoạch làm nổi bật các nét đặc sắc của khu du lịch thì cần có sự quan tâm về mọi mặt.
Có thể bạn quan tâm!
- Giá Trị Thực Phẩm Từ Động Vật Rừng Trung Bình Phục Vụ Du Lịch
- Tiềm Năng Khai Thác Kiến Thức Bản Địa Liên Quan Để Thỏa Mãn Nhu Cầu Trải Nghiệm Nghề Rừng
- Sơ Đồ Du Lịch Tại Khu Vực Đền Thờ Bác Hồ Và Đỉnh Tản Viên
- Giải Pháp Nghiên Cứu Thị Trường, Tiếp Thị Và Quảng Bá Hình Ảnh Du Lịch Và Các Sản Phẩm Du Lịch Tại Vqg Ba Vì
- Nghiên cứu đánh giá tiềm năng du lịch với các sản phẩm từ rừng tại Vườn quốc gia Ba Vì, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - 13
- Nghiên cứu đánh giá tiềm năng du lịch với các sản phẩm từ rừng tại Vườn quốc gia Ba Vì, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - 14
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
Đầu tư cho du lịch tại VQG Ba Vì được thể hiện ở hệ thống đường giao thông và những cơ sở lưu trú, nhà hàng v.v.... Tuy nhiên, phần lớn do doanh nghiệp đầu tư. Các dịch vụ quan trọng như nhà nghỉ, nơi vui chơi giải trí, cắm trại, ẩm thực, bán hàng lưu niệm đều là tự phát nên thiếu quy hoạch. Các tuyến, điểm du ngoạn trong rừng chưa được đầu tư thỏa đáng nên chưa có sức thu hút du khách tới thăm và khám phá thiên nhiên.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở vườn quốc gia Ba Vì hiện còn thiếu trung tâm du khách để giới thiệu cho du khách các mẫu vật về động thực vật của Vườn, các sản phẩm du lịch hiện có. Cơ sở phục vụ nhu cầu khách du lịch vui chơi giải trí còn đơn điệu và thiếu chuyên nghiệp. Các dịch vụ nghỉ dưỡng hoặc thuê phòng nghỉ lưu trú qua đêm còn quá ít so với nhu cầu du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng tại Vườn. Các tuyến đi bộ thưởng thức cảnh quan thiên nhiên trong rừng chỉ mới là sự tận dụng, kết hợp dựa vào các tuyến đường bảo vệ rừng của dự án, tập trung vào một vài nơi ở cốt 400m trở lên. Theo thống kê, trong Vườn có khoảng 200 phế tích biệt thự thời Pháp, chủ yếu nằm ở khu vực cốt 400, cốt 600-700 và cốt 800 … rất có giá trị về lịch sử, là nơi nghỉ dưỡng khá lý tưởng nhưng chưa được khôi phục.
Nguồn nhân lực lao động cho hoạt động du lịch tại VQG Ba Vì là dồi dào. Hàng năm hàng ngàn người được tham gia vào hoạt động du lịch với các lĩnh vực khác nhau từ lưu trú, ăn uống, thăm quan, mua sắm, vui chơi giải trí v.v... Nhưng về chất lượng thấp, cơ cấu theo ngành nghề chưa hợp, chưa được đào tạo và bồi dưỡng kiến thức thường xuyên. Chủ yếu lao động phổ thông chưa qua đào tạo và mức tiền công thấp.
Công tác tuyên truyền và giáo dục bảo vệ tài nguyên và môi trường chưa đạt hiệu quả cao. Trong một số trường hợp du lịch đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến các hệ sinh thái rừng, rõ rệt nhất là sự quấy nhiễu với các loài động vật, bẻ cây, hái cành, dẫm đạp với thực vật, khách du lịch còn để dấu ấn qua các vết khắc đẽo trên cành cây, trong hang động, phá hủy thảm thực vật cạnh đường đi, bắt động vật như bướm, chim, thu nhặt các sản phẩm rừng như hoa Phong lan, Nấm, cây cảnh, gia tăng mức sử dụng tài nguyên đa dạng sinh học, tăng lượng rác thải gây ô nhiễm môi trường, hình thành những mâu thuẫn do chia sẻ lợi ích không hợp lý giữa các lực lượng tham gia quản lý rừng.
Thiếu sự quản lý của cộng đồng với các thực phẩm từ rừng: Hiện nay các địa phương đều có quy ước về quản lý bảo vệ rừng. Tuy nhiên, chủ yếu hướng vào các sản phẩm gỗ, không hoặc rất ít liên quan đến lâm sản ngoài gỗ. Các thực phẩm từ rừng được xem là những tài không được quản lý, vô chủ. Vì vậy, người nào lấy được nhiều thì lợi nhiều, lấy được ít thì lợi ít. Các loại rau rừng, động vật rừng và lâm sản ngoài gỗ nói chung gần như tự do tiếp cận. Vì vậy, người ta không có biện pháp quản lý bảo vệ và phát triển thực phẩm từ rừng và tài nguyên này mỗi ngày một suy thoái.
Khai thác quá mức: Nhiều loài cho thực phẩm từ rừng do bị khai thác nhiều năm đã trở nên nghèo nàn và không còn đủ số lượng để tự phục hồi năng suất của chúng. Một số loài thực vật vốn rất phong phú trong tự nhiên như mây rừng, chuối rừng, củ mài, sung, vả, măng rừng, đặc biệt là các loài động vật như
sóc, dúi, ốc, cua, thỏ rừng, lợn rừng v.v... nhưng nay có số lượng rất ít. Nguyên nhân liên quan đến việc khai thác quá mức, khai thác theo kiểu vô chủ. Với các loài thực vật người ta khai thác không để lại nguồn giống cho phát triển, nhiều loài bị đào cả gốc, cắt cả cây, nhổ cả rễ. Nhiều loài động vật bị bắt đến con cuối cùng. Việc khai thác quá mức đã làm cho các loài vốn rất dễ phát triển trong tự nhiên không còn khả năng phục hồi nữa. Theo những nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ ở vùng nhiệt đới đông nam Á. Nếu đủ nguồn giống thì 1 ha rừng tự nhiên một năm có thể cung cấp 60 kg thịt thú rừng và nhiều loại lâm sản ngoài gỗ có giá trị khác.
Thị trường không ổn định: Thị trường các thực phẩm từ rừng không ổn định. Do không có khách hàng ổn định, không có những hợp đồng ổn định nên người ta không quý những thực phẩm từ rừng và không quan tâm đến những biện pháp bảo vệ và phát triển chúng. Phần lớn người dân chỉ quan tâm đến thu hái các sản phẩm này mà không đóng góp vào bảo tồn và phát triển chúng. Đây là một trong những nguyên nhân làm giảm sản lượng của các tài nguyên này theo thời gian. Nếu những cơ sở du lịch có hợp đồng với người dân địa phương về những sản phẩm từ rừng thì họ sẽ có những biện pháp cần thiết để bảo vệ và nâng cao sản lượng của chúng. Người ta cho rằng sản lượng hiện tại của các thực phẩm từ rừng có thể được nâng lên khi có biện pháp quản lý tốt, như trồng bổ sung, bảo vệ nguồn giống, khai thác với sản lượng thích hợp cân bằng với khả năng phục hồi của chúng trong tự nhiên v.v...
Đã có sự phối hợp phát triển du lịch sinh thái giữa cộng đồng người dân và Ban quản lý VQG nhưng vẫn còn tồn tại một bộ phận người dân vì lợi ích cá nhân làm ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên và làm mất niềm tin của khách du lịch. Chưa có cơ chế phối hợp tổ chức quản lý, khai thác và chia sẻ lợi ích với cộng đồng dân cư và các doanh nghiệp du lịch.
3.3. Định hướng giải pháp khai thác bền vững các sản phẩm du lịch từ rừng Tham khảo ý kiến của các cán bộ địa phương, cán bộ lâm nghiệp và khách du lịch có thể đưa ra một số giải pháp để khai thác bền vững các sản
phẩm du lịch ở hệ sinh thái rừng VQG Ba Vì như sau.
3.3.1. Giải pháp xây dựng cơ chế chính sách, tổ chức hoàn thiện bộ máy hoạt động quản lý
Vườn quốc gia Ba Vì trực thuộc sự quản lý của bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Vì vậy, ban quản lý Vườn cần phải thông qua ý kiến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về các vấn đề khai thác tiềm năng du lịch của Vườn. Để hoạt động du lịch phát triển ở Vườn quốc gia Ba Vì, việc có những cơ chế chính sách tạo hành lang pháp lý môi trường kinh doanh du lịch thuận lợi, khuyến khích và hỗ trợ mọi thành phần kinh tế có thể đầu tư phát triển khu du lịch là điều rất quan trọng và cần thiết. Ban quản lý nên tiến hành quy hoạch chi tiết và xác định rõ ràng ranh giới các điểm du lịch cụ thể trong Vườn, để đề ra các quy định nghiêm cấm việc chặt phá rừng săn bắn các loài động vật, huỷ hoại các tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn… ngăn chặn việc sử dụng trái phép quỹ đất trên phạm vi lãnh thổ đã xác định ưu tiên phát triển du lịch. Ban quản lý Vườn cần có sự kết hợp với các cấp lãnh đạo thành phố Hà Nội thực hiện quản lý nhà nước về tất cả các lĩnh vực, hoạt động du lịch, theo đúng quy định và quy chế nội quy mà luật về du lịch đã được ban hành. Du lịch phát triển cần có sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức, cá nhân tham gia như: Cộng đồng dân cư, tổ chức phi chính phủ, công ty du lịch, ban quản lý Vườn…Vì vậy ban điều hành dự án cần đưa ra chính sách ưu đãi đối với nguồn vốn của các tổ chức cá nhân địa phương khi xúc tiến phát triển du lịch.
Ban quản lý du lịch chưa có kế hoạch chính sách lâu dài, cụ thể cho việc phát triển du lịch nên chưa tạo ra được hiệu quả cao cho hoạt động kinh doanh du lịch của Vườn. Để đảm bảo sự quản lý có hiệu quả, thúc đẩy sự tham gia tích cực của các hộ gia đình thì cần phải có sự kết hợp chặt chẽ đồng bộ giữa hệ
thống chính sách với quá trình tổ chức đưa ra các biện pháp về tổ chức quản lý thích hợp, tránh quan liêu, quản lý chồng chéo, không đồng bộ… Ban quản lý cần xây dựng các quy chế, nội quy quản lý, khai thác du lịch đi đôi với việc tuyên truyền giáo dục văn hoá, nâng cao dân trí cho người dân địa phương và nâng cao nhận thức cho du khách về vấn đề môi trường tự nhiên, văn hoá khi tham gia vào hoạt động du lịch địa phương.
Để việc khai thác các nguồn tài nguyên, xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật, các hoạt động kinh doanh, xây dựng các chương trình du lịch, thu hút khách, hỗ trợ cuộc sống cộng đồng dân cư… được thuận lợi thì Ban quản lý Vườn cần có sự ưu đãi, ưu tiên miễn giảm cho các gia đình kinh doanh du lịch.
3.3.2. Cải thiện xây dựng cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch
Nhìn chung hệ thống cơ sở hạ tầng ở Vườn quốc gia Ba Vì vẫn còn thiếu, và chưa đồng bộ. Các công trình xây dựng đều chưa có quy hoạch đồng bộ, cần đến đâu xin đến đấy và chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân sách của nhà nước. Đây chính là sự hạn chế để Ba Vì có thể hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác bảo vệ rừng, nghiên cứu khoa học và phát triển du lịch.
Để thu hút, đáp ứng nhu cầu và để nhằm mang lại cho khách du lịch những ấn tượng tốt đẹp về Vườn quốc gia Ba Vì thì việc xây dựng cơ sở hạ tầng là hết sức cấp thiết. Việc xây dựng này chủ yếu tập trung vào nâng cấp hệ thống đường bộ, điện, nước sinh hoạt, trạm y tế, bãi đỗ xe… Bởi khách du dịch mặc dù đi du lịch với ý định ban đầu là để thưởng thức các giá trị tài guyên nơi mà họ đến nhưng lại không được đáp ứng tối thiểu thì dù cho các tài nguyên du lịch ở đây có phong phú hấp dẫn đến mấy thì cũng bị giảm đi sức hấp dẫn của chính nó. Các cơ sở nghiên cứu trong Vườn quốc gia Ba Vì đang dần được ổn định. Tuy vậy nhiều cơ sở chưa thực sự hoàn thiện, một vài cơ sở vẫn còn nhỏ hẹp cần được mở rộng thêm.
Bên cạnh cơ sở hạ tầng thì cơ sở vật chất kỹ thuật lại đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định chất lượng sản phẩm du lịch và những ấn tượng để
lại cho du khách. Chính vì vậy muốn hoạt động du lịch hoạt động một cách chuyên nghiệp và đảm bảo chất lượng, các hộ gia đình tham gia vào hoạt động du lịch cần được đầu tư để cải thiện nơi ở của mình nhằm phục vụ nhu cầu lưu trú của khách du lịch như: các trang thiết bị gia đình như ti vi, máy nóng lạnh, chăn, ga, gối đệm… các dụng cụ nấu ăn và phục vụ ăn uống cho khách du lịch và đặc biệt là khu vệ sinh… Có như vậy thì khách du lịch mới có mong muốn ở lại và sử dụng các dịch vụ của người dân. Về phương tiện vận chuyển, Ban quản lý sẽ thu hút nguồn vốn đầu tư và cho vay và ưu tiên để giúp một số hộ gia đình có vốn để mua xe đạp nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại tham quan, dã ngoại bằng xe đạp của du khách.
Ngoài ra, cần tập trung vào việc xây dựng một bãi trông giữ các phương tiện vận chuyển cho các đoàn khách đến tham quan và du lịch tại Ba Vì. Tuy nhiên việc vận hành và quản lý bãi đỗ xe này sẽ do người dân làm chủ dưới sự điều hành và giám sát của Ban quản lý Vườn. Việc đầu tư cho người dân vay vốn mua các phương tiện vận chuyển. Sẽ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch sẽ trở nên dễ dàng, gọn nhẹ, đơn giản và làm hài lòng khách.
3.3.3. Giải pháp bảo tồn các nguồn tài nguyên, đảm bảo lợi ích kinh tế, xã hội cho cộng đồng dân cư
Để hạn chế những tác động có hại có thể xảy ra với môi trường tự nhiên và nhân văn do hoạt động du lịch mang lại cần xây dựng các chương trình du lịch kết hợp với bảo vệ môi trường văn hoá tự nhiên. Cộng đồng địa phương cần nhận thức rõ giá trị của tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn đối với sự phát triển du lịch cũng như cảnh quan chung, văn hoá cộng đồng, bản sắc địa phương của chính họ. Họ cần nhận thức được những thuận lợi và những bất lợi từ hoạt động du lịch và khách du lịch ảnh hưởng đến tài nguyên. Do đó cần xây dựng nội quy tham quan và quy tắc ứng xử cho khách du lịch, cho các đơn vị lữ hành, các đối tượng tham gia cung ứng dịch vụ du lịch để đảm bảo khai thác tài nguyên du lịch một cách bền vững, trên cơ sở bảo tồn và phát huy lâu dài nguồn tài nguyên phục vụ du lịch.
Khai thác tối ưu tiềm năng du lịch của Vườn nhưng vẫn đảm bảo việc phát triển tự nhiên của các loài động, thực vật, không làm tổn hại đến chúng cũng như môi trường sinh thái, cảnh quan nơi đây, do đó Ban quản lý VQG nên phối hợp với các ngành liên quan để đưa ra những biện pháp tối ưu có tính lâu dài cho việc phát triển du lịch bền vững và bảo tồn tài nguyên của Vườn. Cần có các phương án để xử lý chất thải do khách du lịch tạo ra khi tham quan VQG. Chú trọng đào tạo nhân viên, các chuyên gia du lịch những kiến thức về bảo vệ môi trường, cấm chặt phá rừng, khai thác động thực vật bừa bãi… Cần tổ chức nghiên cứu điều tra thường xuyên nguồn tài nguyên tự nhiên vốn có để xác định tiềm năng, giá trị của Vườn về mặt du lịch. Sau khi có kết quả, số liệu điều tra đầy đủ, sẽ hoạch định đề ra các biện pháp phát triển du lịch hài hoà với quy hoạch phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Đối với tài nguyên nhân văn, nên phát huy tối đa văn hoá địa phương, trên cơ sở gìn giữ những giá trị tài nguyên như nó vốn có. Hạn chế những tác dụng tiêu cực tới văn hoá bản địa từ phía du khách.
Du lịch nếu được phát triển đúng đắn sẽ mang lại nhiều lợi ích về kinh tế, xã hội không chỉ riêng cho du lịch mà cho cả người dân. Tuy nhiên để đảm bảo những lợi ích kinh tế xã hội cân bằng cho cộng đồng, đảm bảo cho phát triển du lịch lâu dài như một ngành kinh tế của khu vực thì cần giúp dân ở các vùng phụ cận tìm ra những phương thức sinh kế mới để nâng cao đời sống, giảm sự chênh lệch giàu nghèo đảm bảo sự cân bằng trong cơ cấu phát triển xã hội, hạn chế mức thấp nhất xung đột xảy ra giữa hoạt động du lịch và cộng đồng dân cư khu vực xã lân cận.
3.3.4. Giải pháp bảo tồn các loài động, thực vật hoang dã và cảnh quan sinh thái
Tăng cường công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng đặc biệt là khu vực phân bố tập trung các loài động vật nguy cấp, quí hiếm, kinh tế, các loài có giá