Đánh Giá Ảnh Hưởng Của Các Nhân Tố Đến Quá Trình Hoạt Động Của Chuỗi Cung Sản Phẩm Tôm Nuôi Ở Tỉnh Quảng Nam

Điều nay cho thấy lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nuôi TC vụ 1 của luồng SPTN xuất khẩu luôn được duy trì. Nuôi TC vụ 2 với các mức chi phí nội địa tăng 10%, 15%; 30% chi phí nhập khẩu tăng 10%, 15%, 30% và giá tôm nuôi xuất khẩu giảm 10%, 15% với mức giá hiện hành, chỉ số DRC/SER luôn nhỏ hơn 1. Điều nay cho thấy lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh sản phẩm tôm nuôi TC vụ 2 trong luồng SPTN xuất khẩu luôn được duy trì. Tuy nhiên, khi giá chi phí nội địa, nhập khẩu tăng 30% và giá tôm xuất khẩu giảm 30% thì nuôi tôm TC vụ 2 ở tỉnh Quảng Nam không có lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh. Riêng ở vụ 1 nếu chi phí các yếu tố đầu vào tăng 30% và giá tôm xuất khẩu giảm 30% thì nuôi tôm ở Hội An hoàn toàn bất lợi (DRC= 1,0661) (xem phụ lục 3 Bảng 54, Bảng 55).

3.3.2.2.Bằng phương pháp phân tích dãy số thời gian

Phân tích độ nhạy của DRC bằng phương pháp kịch bản cho thấy, có những kịch bản đưa ra phân tích khó có khả năng xảy ra, có thể không xảy ra như thực tế. Để khắc phục nhược điểm này luận án sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích dãy số thời gian. Thời kỳ 2007-2011 theo giá bình quân thực tế xuất khẩu SPTN (tôm thẻ chân trắng): ở vụ 1 chỉ số DRC/SER luôn nhỏ hơn 1 (phụ lục 3, Bảng 56), điều này chứng tỏ tôm nuôi ở vụ 1 ở tỉnh Quảng Nam có lợi thế cạnh tranh. Trong khi đó, tất cả các năm đều cho thấy chỉ số DRC/SER của vụ 2 luôn lớn hơn vụ 1. Nguyên nhân chủ yếu do vụ 2 thường đạt NS thấp, vì môi trường ô nhiễm, bệnh dịch, mưa lũ xuất hiện sớm, để tránh rủi ro hộ nuôi thu hoạch tôm trước thời gian quy định. Riêng vụ 2 năm 2008 và 2009 có chỉ số DRC/SER lớn 1. Thực tế là trong 2 năm này chi phí đầu vào tăng cao và giá tôm xuất khẩu giảm hơn so với năm 2007. Qua phân tích độ nhạy hay phân tích dãy số thời gian cho thấy ngành hàng tôm nuôi ở Quảng Nam có lợi thế cạnh tranh. Khi giá cả đầu vào tăng 30% và giá giảm 30% thì nuôi tôm vụ 2 và nuôi tôm ở Hội An gặp bất lợi. Đây là cơ sở khoa học, đòi hỏi các cấp quản lý ngành NTTS phải quan tâm khuyến khích hộ nuôi tôm 1 vụ ăn chắc đối với vùng hạ triều, đảm bảo hiệu quả kinh tế và lợi thế cạnh tranh hơn. Trên thực tế, mối quan hệ hợp tác hiện tại giữa các tác nhân trong chuỗi không có tính ràng buộc chặt chẽ nên khi giá cả đầu vào tăng và đầu ra giảm sẽ tác động bất lợi cho hộ nuôi tôm. Điều này tác động tiêu cực đến quá trình hoạt động của CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam.

3.4. Đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố đến quá trình hoạt động của chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam

Trên cơ sở ý kiến đánh giá của các chuyên gia với 5 mức độ tác động theo thang đo Likert: 1- không tác động, 2- tác động yếu, 3- bình thường, 4- khá mạnh, 5- mạnh. Với khoảng cách n = (5-1)/5 = 0,8, ý nghĩa các mức trung bình phân thành 5 nhóm kết quả sau: 1,00-1,80: không tác động; 1,81- 2,60: tác động yếu; 2,61- 3,40: bình thường; 3,41- 4,20: tác động khá mạnh; 4,21-5,00: mạnh, luận án đánh giá mức độ ảnh hưởng theo hướng tích cực (+) và tiêu cực (-) của các nhân tố đến quá trình hoạt động của CCSPTN ở Quảng Nam như sau:

3.4.1. Điều kiện tự nhiên

Bảng 60 phụ lục 3 cho thấy, nhóm các nhân tố tự nhiên có ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của chuỗi cung. Trong đó có 3 nhân tố ảnh hưởng khá rõ nét (mức TB> 3,94). Nhân tố nuôi tôm vùng cao triều tác động tích cực (mức TB là 4,176). Điều này hoàn toàn hợp lý vì nuôi tôm vùng cao triều thường NS và sản lượng ổn định, nuôi TC vụ 2 ở vùng này ít bị ảnh hưởng bởi lũ lụt. Trong khi đó ở vùng hạ triều thường phải thu hoạch sớm nên NS thấp. Khi nguồn cung tôm nguyên liệu sụt giảm ảnh hưởng đến quá trình thu gom và chế biến xuất khẩu. Hai nhân tố biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường mức độ ảnh hưởng được các chuyên gia xem gần như nhau và đều là 2 nhân tố tác động tiêu cực. Như đã trình bày ở trên cho thấy dịch bệnh và ô nhiễm là hai nhân tố làm giảm NS nuôi tôm của hộ gia đình. Tuy nhiên, nhân tố biến đổi khí hậu trong những năm qua tác động mạnh đến quá trình tổ chức sản xuất trên diện rộng hơn. Theo các chuyên gia chất lượng thủy vực tốt, phù hợp với đặc điểm sinh học của tôm cho NS và chất lượng, phẩm cấp sản phẩm cao, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng và chế biến xuất khẩu. Tuy nhiên, trong điều kiện nuôi tôm TC mức độ ảnh hưởng không lớn (mức TB là 3,265).

3.4.2. Các nhân tố về thị trường

Kết quả khảo sát (Bảng 61, phụ lục 3) cho thấy, tất cả các nhân tố thị trường có ảnh hưởng rõ nét đến quá trình hoạt động của CCSPTN ở Quảng Nam. Trong 5 nhân tố, theo ý kiến của các chuyên gia thì nhân tố cung tôm của thế giới tăng tác động mạnh, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hoạt động của CCSPTN ở Quảng Nam (mức TB là 4.325). Vì khi cung tôm thế giới tăng, cầu tôm của thế giới giảm, giá xuất khẩu giảm,

hiệu quả kinh tế và lợi thế cạnh tranh sẽ giảm (xem mục 3.2; 3.3). Cung tôm của các tỉnh lân cận tăng, tác động tiêu cực đến luồng sản phẩm tôm nuôi tiêu thụ ngoài tỉnh (mức TB là 4.00). Cầu tôm thế giới tăng sẽ đẩy giá tôm thế giới tăng, giá xuất khẩu tăng, hiệu quả kinh tế của chuỗi và năng lực cạnh tranh sản phẩm tăng (mức trung bình 4.088), trong điều kiện cung các yếu tố đầu vào tăng (mức TB là 3,941) sẽ tác động khá rõ theo chiều hướng tích cực cho quá trình hoạt động của CCSPTN ở Quảng Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 272 trang tài liệu này.

3.4.3. Nhóm các nhân tố thuộc về hộ nuôi tôm

Các nhân tố thuộc về hộ nuôi tôm ở tỉnh Quảng Nam đều tác động rõ nét đến quá trình hoạt động của CCSPTN (Bảng 62, phụ lục 3), có 3 nhân tố tác động theo chiều hướng tiêu cực, tức làm giảm hiệu quả của chuỗi đó là quy mô vốn SX, quy mô DT nuôi tôm thấp. Nhất là quy mô diện tích nuôi quá thấp (bình quân các hộ điều tra 0,5 ha) tác động tiêu cực (mức TB là 4,441). Đây là nguyên nhân chính không chỉ làm cho các vùng nuôi tôm ở Quảng Nam mà cả các vùng nuôi tôm ở các tỉnh duyên hải miền Trung không đáp ứng đủ tôm nguyên liệu cho các cơ sở chế biến và xuất khẩu tôm ở ngoài tỉnh tham gia CCSPTN ở Quảng Nam. Hầu hết các cơ sở chế biến và xuất khẩu mới hoạt động từ 58,7% công sấu thiết kế [49] [55]. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các yếu tố nguồn lực đầu vào nuôi tôm như giống, TACN, TTYTS… có thể được bổ sung từ các cơ sở ngoài tỉnh, thì năng lực sản xuất của hộ nuôi tôm ở Quảng Nam còn thấp là điểm gây nghẽn của CCSPTN ở Quảng Nam. Vì vậy, cần phải có giải pháp lâu dài để nâng cao quy mô DT nuôi tôm, nâng cao năng suất và tạo điều kiện để hộ huy động vốn cho đầu tư phát triển nuôi tôm, là điều hết sức có ý nghĩa đối với ngành nuôi tôm hiện nay. Nhân tố ý thức pháp luật và bảo vệ môi trường chưa cao cũng là nhân tố có tác động khá rõ nét (mức TB là 3,5). Trong thời gian qua, giá cả tôm xuất khẩu tăng nên nhiều hộ nuôi tăng cường đầu tư bằng mọi giá làm cho môi trường bị ô nhiễm, ảnh hưởng chung đến khu vực nuôi tôm.

Nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam - 17

3.4.4. Các nhân tố thuộc về chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước ở Quảng Nam

Kết quả khảo sát (Bảng 63, phụ lục 3) cho thấy, trong 6 nhân tố thuộc về chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước ở Quảng Nam thì có 3 nhân tố tác động khá rõ nét theo chiều hướng tích cực cho quá trình hoạt động của CCSPTN. Nhân tố chính sách khuyến khích xuất khẩu của chính phủ (mức TB là 4,353) tác động rõ nét nhất, kế đến nhân tố đào tạo nguồn nhân lực (mức TB là 3,618), sau là tăng cường phối hợp với các tỉnh kiểm tra giám sát chất lượng giống (mức TB là 3,353). Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Quyết định phê

duyệt chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020, Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển thủy sản đến năm 2020 của Việt Nam, đây là cơ sở để tỉnh Quảng Nam xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển ngành thủy sản ở Quảng Nam cũng như các tỉnh thành của cả nước. Nó là các chính sách thể hiện quan điểm chỉ đạo của Chính phủ về khuyến khích xuất khẩu, phát triển ngành theo hướng bền vững. Các chính sách này đã thúc đẩy nâng cao kim ngạch xuất khẩu thủy sản, trong đó có sản phẩm tôm nuôi ở Quảng Nam. Có 3 nhân tố tác động khá rõ nét theo chiều hướng tiêu cực, ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của chuỗi. Quy hoạch vùng nuôi tôm chưa có (mức TB là 4,5) nhân tố tác động mạnh nhất. Trên thực tế, địa phương chưa có quy hoạch vùng nuôi tôm. Do đó, người nuôi tôm chưa yên tâm trong việc đầu tư TC như xây dựng hệ thống cấp thoát nước, xây dựng ao nuôi đúng quy trình kỹ thuật. Hiện tại tỉnh chỉ quy hoạch tạm thời 300ha vùng cát ven biển với kỳ hạn từ năm 2011-2018. Những hạn chế trong quản lý nhà nước ở địa phương cũng là trợ ngại lớn cho quá trình hoạt động CCSPTN ở Quảng Nam.

3.4.5. Nhóm nhân tố thuộc về quản lý CCSPTN ở Quảng Nam

Qua nghiên cứu cho thấy (Bảng 64, phụ lục 3), nhân tố chuỗi định hướng tốt tác động tích cực đến quá trình hoạt động của chuỗi (mức TB là 3,677). Tuy nhiên, mức độ tác động chưa cao. Trên thực tế, CCSPTN ở Quảng Nam hướng đến xuất khẩu (87,% sản lượng tôm cho xuất khẩu), nhưng người thu gom đóng vai trò trưởng chuỗi chi phối quá trình cung cấp nguyên liệu tôm cho các nhà máy. Do nắm được nhiều thông tin và khả năng linh hoạt trong việc phân phối sản phẩm nên lợi ích thu nhiều nhất, ảnh hưởng đến lợi ích của các tác nhân khác không khuyến khích đầu tư phát triển.

Hầu hết trong các quan hệ hợp tác không có cam kết bằng văn bản nên sự chia sẻ rủi ro là rất thấp. Khả năng dự báo thị trường của từng tác nhân còn hạn chế (mức TB là 3,5) làm tăng lượng hàng tồn kho ở các tác nhân cuối chuỗi cung như người bán lẻ, cơ sở chế biến và xuất khẩu tôm. Nhân tố hợp tác theo chiều ngang tác động chưa rõ nét (mức TB là 2,971). Đối với hộ nuôi, theo số liệu của Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Quảng Nam, năm 2012 toàn tỉnh có 50 tổ cộng đồng nuôi tôm nước lợ, với 1.500 hộ tham gia. Như vậy, còn gần 50% số hộ chưa tham gia tổ cộng đồng. Trong thực tế, nhóm cộng đồng này là biểu hiện của hợp tác theo chiều ngang giữa hộ với hộ nhằm liên kết để cùng mua con giống, TACN, TTYTS tập trung vào một đầu mối nhằm giảm chi phí lưu thông, cũng như bán sản phẩm cho một đầu mối với giá cao hơn thông qua thương lượng của người

đại diện nhóm. Tuy nhiên, vai trò và cách thức tổ chức chưa tạo ra tính pháp lý cao và mức độ thu hút người nuôi tôm chưa cao. Đối với cơ sở chế biến TACN, SXTG, TTYTS, thu gom, bán buôn, bán lẻ chưa hình thành các tổ chức liên kết nào. Riêng các cơ sở chế biến và xuất khẩu thủy sản đông lạnh ngoài tỉnh tham gia Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, cũng giống như thực trạng chung của cả nước, quan hệ giữa các thành viên trong cùng nhóm tác nhân này là quan hệ cạnh tranh mua nguyên liệu và bán sản phẩm, đẩy giá thành sản phẩm lên cao, khiến giá bán cao khó cạnh tranh với SPTN của các nước trong khu vực ở các thị trường nhập khẩu như EU, Nhật, Mỹ [32]. Trong khi đó CCSPTN ở Thái Lan hay Mê xi cô đã hình thành các hiệp hội của các tác nhân từ khâu giống, chế biến TACN đến chế biến và xuất khẩu tôm tác động tich cực đến quá trình hoạt động của CCSPTN của các quốc gia này [83].

3.4.6. Các nhân tố về cơ sở hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ

Theo các chuyên gia, nhóm nhân tố về cơ sở hạ tầng vùng nuôi và dịch vụ hỗ trợ ở Quảng Nam đều tác động theo chiều hướng tiêu cực, cản trở hoạt của chuỗi này. Trong đó, có 3 nhân tố tác động rõ nét là hệ thống thủy lợi kém, hệ thống giao thông kém và dịch vụ hậu cần phục vụ chưa tốt (TB > 4,2). Nguyên nhân chủ yếu là do chưa quy hoạch vùng nuôi tôm nên các yếu tố của cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm ở địa phương như hệ thống thủy lợi, giao thông chưa được đầu tư. Đây là các nhân tố làm tăng chi phí vận chuyển thức ăn, giống, sản phẩm tôm nuôi, ảnh hưởng đến tổng chi phí hoạt động toàn bộ CCSPTN ở Quảng Nam. Hiện tại ở địa phương chưa có doanh nghiệp nào kinh doanh vận chuyển dành riêng cho NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng, hầu hết các dịch vụ hậu cần đều do từng tác nhân trang bị. Theo các chuyên gia, chi phí điện cao ảnh hưởng đến chuỗi cung (TB là 3,294). Thực tế quá trình tổ chức SXKD của chuỗi đều phụ thuộc vào năng lượng điện phục vụ cho quá trình hoạt động ở tất cả các khâu của CCSPTN như: chế biến thức ăn, sục khí trong tạo giống và nuôi tôm, bảo quản, chế biến tôm. Vì vậy, giá điện trong những năm qua tăng cao làm tăng chi phí, ảnh hưởng đến lợi nhuận và hiệu quả kinh tế của CCSPTN ở Quảng Nam (Bảng 65, phụ lục 3).

3.5. Tóm tắt chương 3

Chương 3 trình bày các nội dung chủ yếu sau:

- Mỗi tác nhân trong chuỗi đều có vị trí quan trọng trong quá trình tạo giá trị của chuỗi. Thông qua các hoạt động của mình, các tác nhân làm gia tăng giá trị SPTN của

chuỗi cung. Trong dòng hạ nguồn của CCSPTN ở Quảng Nam, hộ nuôi tôm có hiệu quả kinh tế cao nhất, nhưng thu nhập hỗn hợp bình quân trên một lao động thấp nhất; hộ có vị thế tài chính cao nhất, nhưng lợi nhuận phân phối chưa tương xứng. Các tác nhân khác có vị thế tài chính thấp nhưng lợi nhuận phân phối cao. Đặc biệt, thu gom lớn có được lợi nhuận cao nhất nhờ vào việc nắm giữ thông tin tương đối đầy đủ và thực hiện khả năng thương lượng trong hoạt động mua tôm của hộ nuôi và bán sản phẩm tôm nguyên liệu cho cơ sở chế biến và xuất khẩu cũng như người bán buôn. Phân tích mức độ quan hệ hợp tác dọc, ngang trong chuỗi cho thấy còn yếu, quan hệ mua bán có tính cạnh tranh, các tác nhân chưa khai thác lợi ích từ các quan hệ hợp tác, chi phí SXKD còn cao do chi phí giao thông, bảo quản lớn. Dòng thông tin trong chuỗi còn hạn chế, thông tin được truyền đi không thông suốt trên toàn chuỗi, vì vậy mức độ chia sẻ thông tin chưa cao.

- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến NS và hiệu quả kinh tế cho thấy: Các yếu tố mật độ giống, ngày công lao động, số lượng thức ăn công nghiệp, kiểm dịch, tập huấn và đầu tư hệ thống kênh cấp thoát nước làm tăng NS tôm nuôi. Bệnh dịch, ô nhiễm môi trường ao nuôi làm giảm NS tôm nuôi. Yếu tố mật độ giống, ngày công lao động, số lượng TACN làm tăng hiệu quả kinh tế đầu tư nuôi tôm của hộ. Sản phẩm tôm nuôi của CCSPTN ở Quảng Nam có lợi thế lợi thế cạnh tranh (DRC/SER<1). Tuy nhiên, nếu giá cả các yếu tố đầu và và đầu ra biến động tăng, giảm trên 30% thì khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp. Thực tế cho thấy nuôi tôm TC vụ1 có hiệu quả kinh tế và lợi thế cạnh tranh cao hơn nuôi tôm TC vụ 2. khi giá tôm xuất khẩu bình quân ở mức 4,27 nghìn USD/tấn, thì nuôi tôm ở vụ 2 không còn lợi thế cạnh tranh nữa.

- Nhóm nhân tố điều kiện tự nhiên, thị trường, hộ nuôi tôm, chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước ở Quảng Nam, nhóm nhân tố thuộc về quản lý CCSPTN cung như nhóm nhân tố thuộc về cơ sở hạ tầng vùng nuôi và dịch vụ hỗ trợ có động đến quá trình hoạt động của CCSPTN ở Quảng Nam. Trong đó, nhân tố quy hoạch vùng nuôi tôm, quy mô DT của hộ nuôi, hệ thống thủy lợi yếu kém, dịch vụ hậu cần hỗ trợ chưa tốt, hệ thống giao thông yếu kém tác động rõ nét, đang cản trở quá trình hoạt động của CCSPTN ở Quảng Nam. Đây là những hạn chế cần phải có biện pháp khắc phục nhằm hoàn thiện chuỗi cung để nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 4

CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHUỖI CUNG SẢN PHẨM TÔM NUÔI Ở TỈNH QUẢNG NAM

4.1. Những căn cứ đề ra giải pháp

4.1.1. Xu thế tiêu thụ sản phẩm tôm nuôi trong nước và thế giới

4.1.1.1. Xu hướng tiêu thụ trong nước

Người dân Việt Nam được cho là có thói quen về tiêu dùng thủy hải sản, nhưng xét về mặt quy mô và giá trị tiêu thụ của thị trường thủy hải sản trong nước còn thấp, chưa đóng góp được nhiều cho ngành thủy sản. Người Việt Nam ưa chuộng thủy hải sản tươi sống hơn là các sản phẩm đông lạnh, đóng họp…Tuy nhiên cùng với xu thế phát triển kinh tế, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, người tiêu dùng sẽ dần chuyển sang sử dụng hàng thủy hải sản cao cấp như tôm và các sản phẩm chế biến từ tôm nhiều hơn. Tại các thành phố lớn, nhu cầu tiêu thụ tôm ngày càng tăng cao thông qua các nhà hàng, các khu du lịch, các siêu thị [52]. Trong dự báo phải tính đến tốc độ tăng dân số, mức tăng thu nhập bình quân đầu người và mức tiêu thụ của khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam. Sản lượng tôm tiêu thụ ở Việt Nam, dự báo đến năm 2020 là 356 nghìn tấn, trong đó tôm nuôi là 195,5 nghìn tấn, tôm đánh bắt là 160,5 nghìn tấn (phụ lục 3, Bảng 66).

4.1.1.2. Xu hướng tiêu thụ tôm trên thế giới

Theo dự báo của FAO, mức tiêu thụ thủy sản bình quân đầu người trên thế giới hàng năm tăng tới 18,4kg/người vào năm 2010 và đến năm 2020 sẽ đạt 19,1kg/người, riêng đối với các nước phát triển mức tiêu thụ bình quân đầu người là 30kg/người. Tôm là mặt hàng thủy sản giàu dinh dưỡng, được tiêu thụ phổ biến ở các quốc gia trên thế giới [69]. Quốc gia có nhu cầu nhập khẩu tôm lớn nhất trên thế giới: Mỹ hàng năm nhập khẩu từ 534,9 đến 577,1 nghìn tấn/năm, các nước EU từ 593,2 đến 647,4 nghìn tấn/năm, Nhật Bản từ 262,6 đến 285,3 nghìn tấn/năm. Tôm tiếp tục là mặt hàng lớn nhất, chiếm 15% tổng giá trị thương mại thủy sản quốc tế trong năm 2010. Năm 2010, thị trường tôm đã có sự phục hồi đáng kể sau đợt suy thoái mạnh vào năm 2009, với nét nổi bật là khối lượng thương mại ổn định, mặc dù giá giảm đi đáng kể. Nhiều thị trường khu vực châu Á và Mỹ Latinh cũng tiêu thụ tôm nhiều hơn khiến giá tôm trong năm 2011 ở mức khá cao và ổn định. Năm 2012, thị trường tôm thế giới có một số điểm tích cực về nhu cầu

tiêu thụ. Các nước có giá trị xuất khẩu đáng kể nhất là Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu và tiêu thụ chính là Mỹ và Nhật Bản. Theo FAO, nhịp độ tăng tiêu thụ tôm trên thế giới thời kỳ 2012-2020 sẽ tăng bình quân 3,2%/năm. Đặc biệt, tiêu thụ tôm tăng mạnh ở các nước và vùng lãnh thổ kinh tế mới nổi thuộc châu Á như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông [70].

4.1.2. Quan điểm, định hướng hoàn thiện CCSPTN nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển ngành hàng tôm nuôi bền vững ở tỉnh Quảng Nam

4.1.2.1.Các quan điểm hoàn thiện CCSPTN để nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển ngành hàng tôm nuôi bền vững ở Quảng Nam

Một là, hoàn thiện CCSPTN đảm bảo quá trình thực hiện chuỗi thông suốt đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Thực chất phân tích CCSPTN là xem xét quá trình tổ chức để kết hợp các yếu tố đầu vào nhằm tạo ra SPTN và tổ chức đưa SPTN này từ người nuôi tôm đến người tiêu dùng. Tức là xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chuỗi cung. Trên thực tế, CCSPTN ở Quảng Nam còn nhiều mặt hạn chế, quy mô của các hộ nuôi tôm còn nhỏ lẻ, năng lực tham gia chuỗi còn yếu. Dòng sản phẩm, thông tin, vị thế tài chính, các mối quan hệ hợp tác cần phải được cải thiện. Vì vậy, khi đề ra các giải pháp phái chú ý giải quyết tốt khâu yếu nhất của quá trình thực hiện chuỗi, cần lồng ghép các quá trình theo hướng hỗ trợ nhau để nhằm tối đa hóa lợi ích cho người tiêu dùng [47].

Hai là, hoàn thiện CCSPTN nhằm phát huy lợi thế của ngành nuôi tôm, nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành hàng tôm nuôi. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, tất cả các sản phẩm cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Ngành hàng tôm nuôi muốn đứng vững trên thị trường thì SPTN phải có lợi thế so sánh hay lợi thế cạnh tranh dựa vào lợi thế tài nguyên của vùng hay dựa vào tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong điều kiện hiện nay ở tỉnh Quảng Nam muốn hoàn thiện CCSPTN phải quan tâm cả phát huy lợi thế về mặt tài nguyên và ứng dụng khoa học công nghệ trong từng khâu của chuỗi cung hay ngành hàng tôm nuôi, từ khâu SX tôm giống, chế biến TACN, nuôi tôm TC và đổi mới công nghệ trong khâu bảo quản và chế biến SPTN. Trên cơ sở đó, mới nâng cao hiệu quả kinh tế ngành hàng tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam [47] [48].

Xem tất cả 272 trang.

Ngày đăng: 13/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí