Quảng Nam. Quy hoạch vùng nuôi tôm phải đảm bảo phát triển các ngành nghề của vùng ven biển, đặc biệt là du lịch Phố cổ Hội An, du lịch sinh thái biển, ven biển và đảo; đồng thời, phải gắn với công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo và an ninh biên giới Quốc gia.
4.2.2.2. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm và dịch vụ hậu cần theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi.
Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của CCSPTN ở Quảng Nam. Qua thực tế cho thấy cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm ở các địa phương tỉnh Quảng Nam chưa được chú trọng, khu vực nuôi vùng thủy triều hệ thống thủy lợi chưa được đầu tư, giao thông đi lại rất khó khăn, thiếu điện, nước phục vụ cho nuôi tôm TC và BTC. Để phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi, tỉnh phải chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ nhằm giải quyết những khó khăn để phát triển đời sống kinh tế, xã hội ở vùng nuôi. Những đối tượng cần quan tâm đầu tư như sau:
- Hệ thống thủy lợi do sử dụng chung với ngành trồng trọt nên việc cung cấp và thoát nước rất khó khăn, nhiều ao nuôi không thể lấy nước từ hệ thống kênh này. Vì vậy cần phải quy hoạch và tổ chức thực hiện theo quy hoạch, xây dựng hệ thống thủy lợi phù hợp với từng vung nuôi tôm (nuôi vùng thủy triều và nuôi vùng cát ven biển) nhằm bảo đảm cung cấp đầy đủ nước ngọt, lợ để nuôi tôm; đồng thời góp phần xử lý tốt ô nhiễm môi trường, hạn chế lây lan dịch bệnh của vùng nuôi tôm ở các địa phương.
- Điện phục vụ nuôi tôm và giao thông đi lại vùng nuôi tôm phải được quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch nhằm đảm bảo yêu cầu nuôi tôm TC đạt hiệu quả kinh tế cao. Hệ thống điện phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu điện cho sục khí liên tục cung cấp ôxy cho tôm, đặc biệt trong điều kiện nuôi tôm thẻ chân trắng TC với mật độ cao như hiên nay. Hệ thống giao thông phải thông suốt từ vùng nuôi đến các cơ sở SX các yếu tố đầu vào cũng như chế biến vào tiêu thụ SPTN nhằm đảm bảo cung cấp tôm giống, TACN, TTYTS kịp thời, cũng như vận chuyển SPTN đi tiêu thụ đảm bảo chất lượng.
- Thu hút mọi thành phần đầu tư vào dịch vụ hậu cần, như xây dựng hệ thống kho lạnh, dịch vụ vận chuyển, thiết bị phục vụ nuôi tôm [22]. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng viễn thông, trạm bưu điện xã, thư viện. Hiện nay, nguồn thông tin mà các tác nhân có được rất đa dạng, tuy nhiên vẫn chưa đảm bảo để các tác nhân tiếp cận có hiệu quả, nhất là người nuôi tôm. Vì vậy, đây là cơ sở hạ tầng cần thiết để hộ nuôi có điều kiện nâng cao kiến thức và trao đổi thông tin đối với các tác nhân trong chuỗi cung một cách có hiệu quả.
Để thực hiện yêu cầu đầu tư trên, đối với tỉnh Quảng Nam nguồn ngân sách còn hạn chế, cần phải có chính sách thu hút các thành phần khác nhau tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng; cần lồng ghép các dự án, chương trình khác nhau thuộc ngân sách nhà nước đầu tư hợp lý; đồng thời với xây dựng phải xác lập cơ chế khai thác, quản lý sử dụng có hiệu quả các hạng mục từng công trình đầu tư.
4.2.2.3. Chính sách vốn cho việc hoàn thiện CCSPTN nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam
Sản xuất kinh doanh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề cạnh tranh riêng lẻ của từng doanh nghiệp sẽ khó tồn tại, mà cạnh tranh giữa các chuỗi cung sản phẩm trở nên quyết liệt hơn. Kết quả đánh giá thực trạng quá trình tạo giá trị của các tác nhân trong CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam cho thấy quy mô sản xuất của các tác nhân chủ yếu là vừa và nhỏ. Chính quy mô này ảnh hưởng đến quá trình tạo giá trị gia tăng của mỗi tác nhân và toàn bộ chuỗi cung. Vì vậy, các tác nhân trong CCSPTN ở Quảng Nam rất cần vốn để đầu tư nhằm tăng cường năng lực SXKD của mình. Hộ nuôi tôm cần vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng ao nuôi như xây dựng bờ bao, ao lắng, hệ thống cấp thoát nước và vốn để mua con giống, TACN, TTYTS cho tôm. Trong khi đó các công ty chế biến và xuất khẩu cần vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, mua tôm nguyên liệu, tìm kiếm thị trường xuất khẩu. . .
Để làm được điều này đòi hỏi tỉnh phải có chính sách phân bổ nguồn vốn từ ngân sách hỗ trợ cho các tác nhân tham gia ngành hàng tôm nuôi với nhiều hình thức khác nhau. Đặc biệt, thông qua ngân hàng cho vay ưu đãi, theo hướng lấy cơ sở chế biến và xuất khẩu làm trung tâm. Ngân hàng cung cấp tín dụng ưu đãi cho những cơ sở chế biến và xuất khẩu trong ngành hàng tôm nuôi có tiềm năng về thị trường, có vùng nguyên liệu, có hợp đồng SPTN với hộ nuôi. Cơ sở chế biến và xuất khẩu sử dụng khoản vay để ứng trước vốn, giống, vật tư, thiết bị cho hộ nuôi có hợp đồng SPTN, đồng thời cần tính tới việc tăng tính linh hoạt về vốn cho hộ nuôi và tiếp tục biện pháp quản lý vốn vay thông qua các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương, hợp tác xã hay tổ cộng đồng nuôi tôm [22] [24]. Đối với hộ đã vay, nhưng rơi vào tình trạng thua lỗ do dịch bệnh, thiên tai cần phải có chính sách giãn nợ hợp lý. Các ngân hàng cần phải tạo những điều kiện tốt nhất để các tác nhân tiếp cận nguồn vốn vay. Với hộ nuôi tôm cần phải trợ giúp họ xây dựng kế hoạch vay vốn và trả nợ vay, để họ tiếp cận các loại tín dụng khác nhau vay vốn đầu tư cho sản xuất. Chính sách cần phải hướng đến ưu tiên
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Ảnh Hưởng Của Các Nhân Tố Đến Quá Trình Hoạt Động Của Chuỗi Cung Sản Phẩm Tôm Nuôi Ở Tỉnh Quảng Nam
- Định Hướng Hoàn Thiện Ccsptn Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Kinh Tế, Khả Năng Cạnh Tranh Và Phát Triển Ngành Hàng Tôm Nuôi Bền Vững Ở Tỉnh Quảng Nam
- Chú Trọng Công Tác Vệ Sinh An Toàn Thực Phẩm Của Từng Tác Nhân Trong Ccsptn
- Nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam - 21
- Cấu Trúc Vật Lý Của Chuỗi Cung
- Các Chỉ Tiêu Phân Tích Tình Hình Phát Triển Tôm Nuôi
Xem toàn bộ 272 trang tài liệu này.
nâng cao năng lực, hệ thống cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ, gắn với sự hỗ trợ và khuyến khích các tác nhân tham gia tiêu thụ SPTN; đồng thời khuyến khích nuôi tôm theo tiêu chuẩn Vietgap, đảm bảo VSATTP cho người tiêu dùng [4] [24]. Tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế, hoàn thiện và xây dựng các cơ chế bảo hiểm rủi ro phù hợp với từng tác nhân tham gia CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam
Thực hiện giải pháp này, góp phần tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các tác nhân phía thượng nguồn với tác nhân hạ nguồn, cho phép loại bỏ các tác nhân trung gian, cơ sở chế biến và xuất khẩu có điều kiện TXNG xuất xứ SPTN.
4.2.2.4. Phát huy vai trò của tổ cộng đồng, tiến tới thành lập các HTX dịch vụ nuôi tôm để giải quyết tốt lợi ích cho hộ nuôi tôm thông qua hoàn thiện CCSPTN
Tổ cộng đồng nuôi tôm là một trong những hình thức biểu hiện mức độ hợp tác theo chiều ngang giữa những người cùng nuôi trên tinh thần tự nguyện, hợp tác về mọi mặt trong hoạt động nuôi tôm nhằm nâng cao hiệu quả [1] [4]. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế cho thấy hoạt động liên kết, hợp tác của tổ cộng đồng nuôi tôm ở tỉnh Quảng Nam còn yếu, mới chỉ hợp tác trong hoạt động mua một số dịch vụ đầu vào chủ yếu như mua TACN, tôm giống, chưa thực hiện hợp tác trong các công đoạn nuôi tôm, xử lý dịch bệnh, ô nhiễm môi trường và kết nối với thị trường đầu ra. Để phát huy được vai trò liên kết, hợp tác của tổ cộng đồng nuôi tôm, Chi cục Nuôi trồng thủy sản thực hiện các biện pháp sau:
- Đẩy mạnh công tác hướng dẫn tổ chức các hoạt động liên kết, hợp tác của tổ cộng đồng trong khâu mua các yếu tố đầu vào, các công đoạn nuôi và khâu tiêu thụ sản phẩm; đặc biệt là công tác phòng và điều trị bệnh tôm, xử lý môi trường thông qua người trưởng nhóm.
- Tăng cường sự hỗ trợ của tỉnh về kinh phí thông qua các hoạt động kiểm tra giám sát môi trường, chất lượng giống, SPTN; nghiên cứu thị trường và thông tin kịp thời tình hình diễn biến giá cả các yếu tố đầu vào và sản phẩm đầu ra cho hộ nuôi thông qua tổ cộng đồng.
Tiêu thụ SPTN là vấn đề khó đối với các hộ nuôi hiện nay, vì khả năng tiếp cận thị trường của hộ, khả năng hỗ trợ từ tổ cộng đồng về liên kết tiêu thụ sản phẩm còn nhiều hạn chế, do người trưởng nhóm chưa đủ năng lực và không có đủ tư cách pháp nhân để quan hệ hợp đồng với các tác nhân theo quy định của pháp luật. Thực tế cho thấy, phần lớn SPTN ở các địa phương trong tỉnh cung cấp cho các công ty chế biến và xuất khẩu thông qua người thu gom. Thông tin về chất lượng, phẩm cấp, kích cỡ,
giá bán tôm người nuôi không nắm rõ. Vì vậy, họ luôn bị thu gom ép giá, ép phẩm cấp dẫn đến thua thiệt. Hiện nay, ở Quảng Nam chưa có HTX dịch vụ nuôi tôm. Để đảm bảo lợi ích của người nuôi tôm, cũng như để phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi đòi hỏi phải thành lập HTX dịch vụ nuôi tôm gắn với thiết chế làng, xã, khu vực nuôi tôm cụ thể. Đây là một tổ chức tự nguyện của những người cùng nuôi tôm có tư cách pháp nhân, có khả năng đảm bảo tổ chức hiệu quả các mối quan hệ hợp tác trong hoạt động nuôi tôm của hộ [4] [37].
Kênh chính: Kênh phụ:
Người bán lẻ
Người tiêu dùng nước ngoài
Người bán buôn
Nhà nhập khẩu nước ngoài
Cơ sở sản xuất tôm giống
Người thu gom
Công ty chế biến và xuất khẩu tôm
Hộ nuôi tôm
Cơ sở chế biến TACN và TTYTS
Dịch vụ khác
HTX dịch vụ nuôi tôm
Để thực hiện được điều này, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam mà trực tiếp là Chi cục NTTS cần tham mưu với UBND tỉnh xây dựng đề án tổ chức HTX dịch vụ nuôi tôm nhằm liên kết với các tác nhân cả phía thượng nguồn về tôm giống, TACN, TTYTS và với các tác nhân phía hạ nguồn như công ty chế biến và xuất khẩu, người bán lẻ để cung cấp SPTN theo các luồng sản phẩm tiêu thụ. HTX dịch vụ nuôi tôm chịu trách nhiệm cung cấp đầy đủ các thông tin về tiêu chuẩn chất lượng giống tôm, TACN, TTYTS, SPTN và giá cả đầu vào và đầu ra theo hợp đồng với các đối tác cho hộ nuôi. Với nhiệm vụ và vai trò đó, HTX dịch vụ nuôi tôm có đủ năng lực đàm phán thương lượng trong các quan hệ mua bán để đạt được mức giá cả tối ưu, đảm bảo hạ thấp chi phí SXKD, nâng cao chất lượng SPTN, giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế nuôi tôm.
Người tiêu dùng trong nước
Sơ đồ 4.1. Chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở Quảng Nam được điều chỉnh
Nguồn: tác giả xây dựng
Việc tổ chức HTX dịch vụ nuôi tôm có thể cho phép loại bỏ một số tác nhân
trung gian như thu gom, bán buôn, thúc đẩy nhanh dòng SPTN đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng, khắc phục được những mặt hạn chế từ đặc điểm của SPTN đối với CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam. Đây là một trong những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của chuỗi cung hay chuỗi giá trị, đảm bảo phân phối lợi nhuận một cách hợp lý cho người nuôi tôm. Thực hiện tốt giải pháp này, sẽ tạo điều kiện để nâng cao mức độ hợp tác giữa các tác nhân trong chuỗi, nâng cao lợi thế cạnh tranh của ngành hàng tôm nuôi. Chính vì vậy, các cấp chính quyền địa phương phải có các biện pháp cụ thể nhằm khuyết khích, vận động hộ nuôi tôm và các tác nhân tham gia trong chuỗi thành lập HTX và tổ chức thực hiện có hiệu quả.
4.2.2.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ ngành hàng tôm nuôi
Để nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển ngành hàng tôm nuôi đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Mỗi tác nhân trong chuỗi đều có nguồn nhân lực tương ứng, thể hiện tính chuyên môn hóa sâu ở từng mắt xích. Trong những năm qua, lực lượng lao động sử dụng ở mỗi tác nhân còn nhiều mặt hạn chế về chất lượng, tỷ lệ người lao động tốt nghiệp phổ thông trung học còn thấp, số lao động qua đào tạo chuyên môn cao còn hạn chế, chủ yếu người lao động thực hiện công việc theo kinh nghiêm tích lũy được qua nhiều năm như kỹ thuật nuôi trồng, bảo quản và chế biến. Do đó hạn chế khả năng tiếp cận khoa học công nghệ cao của người lao động khi các tác nhân đầu tư máy móc, trang thiết bị hiện đại trong quá trình sản xuất từ khâu cung ứng các yếu tố đầu vào đến nuôi tôm, thu gom, chế biến và xuất khẩu nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành hàng tôm nuôi, trong chính sách của tỉnh phải chú trọng các giải pháp sau:
Đối với lao động trong khâu tạo giống, nuôi tôm cần phải tăng cường công tác khuyến ngư, mở lớp tập huấn, bỗi dưỡng kiến thức về khoa học - kỹ thuật NTTS cho hộ nuôi tôm và người lao động tham gia trong nuôi tôm. Chương trình tập huấn, bồi dưỡng phải được xây dựng có tính hệ thống theo hướng đào tạo nghề và phân chia nhỏ thành các mô đun, được tổ chức thành nhiều đợt gắn liền với quá trình quản lý, chỉ đạo sản xuất của ngành NTTS ở tỉnh Quảng Nam. Nội dung chương trình bồi dưỡng không chỉ đề cập đến quy trình kỹ thuật nuôi tôm từ khâu chọn giống, các biện pháp cải tạo ao
nuôi khi thả nuôi, kỹ thuật chăm sóc, cho ăn trong từng giai đoạn phát triển của con tôm… mà còn phải hướng dẫn, phổ biến kiến thức sử dụng hóa chất, kháng sinh trong nuôi và bảo quản sau thu hoạch, không sử dụng hóa chất, kháng sinh bị cấm.
Đối với lao động trong cơ sở thu gom cơ quan khuyến công kết hợp với Sở Công - Thương Quảng Nam mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật bảo quản tôm sau thu hoạch cho chủ cơ sở thu gom và người lao động, cũng như tuyên truyền các chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý VSATTP.
Đối với các doanh nghiệp chế biến TACN cho NTTS, chế biến và xuất khẩu thủy sản tỉnh cần phải có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo cán bộ có trình độ cao, áp dụng tốt khoa học - công nghệ mới vào trong chế biến, bảo quản sản phẩm nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường các nước có nền kinh tế phát triển như Nhật, Mỹ và EU.
Về chiến lược phát triển nguồn nhân lực, tỉnh phải tăng cường đào tạo độ ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có trình độ cao phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước đối với ngành hàng tôm nuôi ở Quảng Nam, có chính sách hỗ trợ con em, người lao động đang và sẽ đào tạo nghiệp vụ chuyên môn về NTTS ở các trường Trung cấp chuyên nghiệp, Cao đẳng và Đại học trong cả nước, thu hút người học sau khi tốt nghiệp về địa phương để công tác tại các cơ quan quản lý ngành ở các cấp, nhất là cấp xã, phường, thị trấn.
4.2.2.6. Mở rộng thị trường tiêu thụ SPTN trong nước và xuất khẩu
Thị trường tiêu thụ SPTN luôn đóng vai trò quyết định đến sự phát triển bền vững của ngành hàng tôm nuôi. Trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi chính sách thị trường tiêu thụ SPTN ở tỉnh Quảng Nam phải quan tâm mở rộng cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Trong đó, cần phải chú trọng hơn trong việc mở rộng thị trường nội địa nhằm mục đích giảm rủi ro do tác động của thị trường tiêu thụ SPTN trên thế giới và trước những thách thức lớn của các biện pháp bảo hộ mậu dịch từ các nước nhập khẩu SPTN. Thực tế trong những năm qua cho thấy thị trường tiêu thụ nội địa của CCSPTN ở Quảng Nam có sản lượng tiêu thụ thấp (chiểm từ 5% đến 16% sản lượng tôm nuôi của tỉnh), thị trường xuất khẩu thì lớn (chiếm từ 90% đến 95%) nhưng không ổn định. Nguyên nhân chủ yếu, vì đây là chuỗi cung định hướng theo thị trường xuất khẩu, các cơ sở chế biến và xuất khẩu trong CCSPTN ở Quảng Nam tập trung mạnh vào thị trường nước ngoài, ít quan tâm đến thị trường nội địa; do thói quen của NTD trong nước như đã đề cấp và do quy mô
sản lượng tôm nuôi của tỉnh còn thấp. Khi mức cung thấp, mức cầu về tôm tăng làm cho giá SPTN nội địa tăng. Thực tế chi phí HĐTGT của từng tác nhân còn cao do quan hệ hợp tác, liên kết còn hạn chế làm cho giá tăng cao. Số lượng NTD giảm, dẫn đến quy mô thị trường tiêu thụ tôm trong nội địa thấp. Để mở thị trường tiêu thụ SPTN nội địa nói chung và của tỉnh Quảng Nam nói riêng trong thời gian đến tỉnh cần phải có các biện pháp cấp thiết sau đây:
Trước hết, phải hoàn thiện các luồng SPTN tiêu thụ nội địa sẵn có nhằm đáp ứng nhu cầu NTD trong nước. Thực hiện các biện pháp để nâng cao sản lượng tôm nuôi của hộ; xây dựng các cơ chế hỗ trợ để tăng cường các mối quan hệ hợp tác, liên kết ngang ở từng khâu của CCSPTN thông qua việc tổ chức và phát huy vai trò các hội, hiệp hội trong ngành hàng tôm nuôi để bổ sung nguồn lực và chia sẻ thị trường cho mỗi tác nhân. Hỗ trợ các cơ sở chế biến và xuất khẩu tôm nghiên cứu chế biến những sản phẩm truyền thống, phù hợp thị hiếu của NTD trong nước như mắm tôm, tôm dầm mắm… Đồng thời, liên kết với người bán lẻ tại các chợ đầu mối hỗ trợ xây dựng hệ thống kho lạnh với công suất hợp lý để nâng cao sản lượng và kéo dài thời gian lưu trữ, đảm bảo
chất lượng tôm đông lạnh, tôm tươi sống đáp ứng nhu cầu NTD trong nước.
Ở thị trường thế giới, hiện tại các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu tôm của Việt Nam chưa xây dựng hệ thống phân phối ở nước ngoài, hầu hết phụ thuộc vào các nhà nhập khẩu nước ngoài. Mặc dù SPTN của Việt Nam có mặt trên 91 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhưng hầu hết người tiêu dùng ở các nước không hề biết đến thương hiệu tôm của Việt Nam mà chủ yếu sử dụng thương hiệu của nhà phân phối, và chưa đăng ký bảo hộ bản quyền. Vì vậy, để tăng cường mở rộng thị trường xuất khẩu đối với sản phẩm tôm nuôi ở Quảng Nam trong thời gian đến tỉnh cần phải thực hiện các giải pháp:
- Xây dựng thương hiệu, đăng ký bảo hộ và quảng bá thương hiệu tôm nuôi ở Quảng Nam. Đây là điều kiện để mở rộng thị trường xuất khẩu, đòi hỏi tỉnh phải tạo điều kiện để hộ nuôi và các cơ sở chế biến và xuất khẩu tôm phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký bảo hộ và quảng bá SPTN ra thị trường thế giới.
- Khuyến khích các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu trong và ngoài tỉnh mở rộng mạng lưới hệ thống phân phối trực tiếp ra nước ngoài, chú trọng đến hệ thống phân phối lớn, các siêu thị ở nước ngoài nhằm tăng cường khả năng tham gia vào CCSPTN toàn cầu [21].
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công -Thương Quảng Nam cần phải xây dựng và phát triển năng lực dự báo nhu cầu và diễn biến thị trường thế giới để kịp thời cung cấp đầy đủ các thông tin về giá cả, cân đối cung cầu, xu hướng tiêu thụ và những yêu cầu mới ở các thị trường nhập khẩu tôm cho các tác nhân trong CCSPTN ở Quảng Nam. Ngoài những thị trường xuất khẩu truyền thống còn phải nghiên cứu định hướng cho các doanh nghiệp tiếp cận với những thị trường mới, thị trường tiềm năng của các quốc gia trên thế giới.
4.2.2.7. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với CCSPTN, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành hàng tôm nuôi phát triển bền vững
CCSPTN thực chất là một hình thức tổ chức sản xuất theo chuỗi liên kết giữa các tác nhân liên quan đến ngành hàng tôm nuôi. Hoạt động của chuỗi cung là 1 dòng chảy liên tục, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong quản lý nhà nước ở các ngành công nghiệp, nông - lâm - thủy sản, thương mại và dịch vụ…Thực tế trong những năm qua công tác quản lý nhà nước đối với ngành hàng tôm nuôi còn nhiều hạn chế trên các mặt như: quản lý về chất lượng và VSATTP chưa quan tâm đúng mức, công tác quan trắc dịch bệnh và cảnh báo ô nhiễm môi trường còn hạn chế, thiếu sự phối hợp tốt giữa các cơ quan chức năng liên quan trong tỉnh để xử lý kịp thời những sai phạm trong từng mắt xích của CCSPTN, làm giảm hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với ngành hàng này. Để đảm bảo nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với ngành hàng tôm nuôi, trong thời gian tới, tỉnh cần phải thực hiện các biện pháp sau:
- UBND tỉnh ban hành các văn bản quy phạm nhằm cụ thể hóa các chính sách quản lý, hỗ trợ của Nhà nước trong NTTS nói chung, ngành hàng tôm nuôi nói riêng; quán triệt quan điểm về tổ chức quản lý ngành theo chuỗi cung/chuỗi giá trị sản phẩm nhằm hạn chế tình trạng lĩnh vực hóa, khu vực hóa, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng về trách nhiệm quản lý đối với ngành hàng này.
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam cần phải hoàn thiện công tác quan trắc dịch bệnh, cảnh báo ô nhiễm môi trường ở các vùng nuôi tôm, các địa bàn có các tác nhân tham gia CCSPTN đang hoạt động.
- Các cấp chính quyền địa phương trong tỉnh phải tăng cường công tác giáo dục pháp luật về quản lý đất đai, VSATTP, môi trường, trong nuôi trồng, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm tôm nuôi cho các đối tượng tham gia CCSPTN, nhằm