có trang thiết bị dạy học tiên tiến, cơ sở vật chất kỹ thuật tốt thì cũng không thể đào tạo ra những học sinh có chất lượng cao.
Để có trang thiết bị tiên tiến phục vụ công tác đào tạo thì phải linh hoạt trong việc kết hợp giữa đào tạo với các dự án chuyển giao công nghệ mới; tranh thủ các nguồn kinh phí hỗ trợ cho đào tạo từ nước ngoài; kết hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo với đơn vị sản xuất.
Các cơ sở đào tạo của EVN cần phải có kế hoạch cụ thể hàng năm trong việc đầu tư trang bị các phương tiện thiết bị mới phù hợp với thực tiễn sản xuất để EVN có điều hành cụ thể trong chiến lược đầu tư cho hệ thống các phòng học, phòng thí nghiệm xưởng thực hành, trang thiết bị vật tư, kinh phí đào tạo…
b) Phát huy vai trò hoạt động của thư viện, cập nhật kịp thời tư liệu, sách nghiên cứu khoa học
Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, người học phải học thêm nhiều môn học mới vì vậy việc giảm số giờ học của môn là tất yếu; và người học phải tự đọc, tự tìm tòi thêm tài liệu. Ngoài ra, để tăng cường và thúc đẩy phong trào NCKH của giảng viên và học viên, nếu không có thư viện, tài liệu và sách tham khảo thì sẽ rất khó nâng cao chất lượng đào tạo. Thư viện phải được coi như người thày thứ 2 của học viên, để giúp họ tự đào tạo. Với tình trạng như hiện nay, trước mắt các trường có thể khắc phục bằng một số biện pháp sau:
- Đầu tư kinh phí cho thư viện để tăng số giáo trình, bài giảng, đủ để học viên mượn, tăng số đầu sách và tài liệu tham khảo.
- Xây dựng thư viện điện tử (mở-trang web đào tạo của Ngành) để thu hút hoạt động tự học của học viên tạo tiền đề cho việc lấy người học làm trung tâm.
- Năng động trong việc sưu tập tài liệu và thiết lập nguồn khai thác sách và tài liệu mang tính ổn định và có sự hợp tác tốt để sưu tầm, biên dịch… những loại sách, tài liệu cần thiết phục vụ cho dạy, học và NCKH.
- Cần chăm lo đào tạo năng lực chuyên môn cho cán bộ thư viện để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của công tác thư viện, hội nhập được với hệ thống thư viện của Ngành và của các trường đại học cao đẳng nói chung.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Khó Khăn, Thách Thức Trong Đào Tạo Công Nhân Kỹ Thuật Công Nghiệp Điện Lực
- Giải Pháp Thể Chế Hóa Về Đầu Tư Tài Chính Cho Công Tác Đào Tạo
- Sử Dụng Công Nghệ Thông Tin Trong Việc Quản Lý Hệ Thống Các Khóa/lớp Đào Tạo
- Về Quản Lý Chất Lượng Đào Tạo Cnkt Tại Doanh Nghiệp:
- Phạm Phụ (1997), “Các Vấn Đề Tồn Tại Trong Việc Phát Triển Nguồn Nhân Lực Phục Vụ Công Cuộc Công Nghiệp Hóa-Hiện Đại Hóa”, Kỷ Yếu Hội Thảo
- Tiêu Chuẩn 1. Mục Tiêu, Nhiệm Vụ Của Trường Được Xác Định Rõ Ràng, Cụ Thể;
Xem toàn bộ 316 trang tài liệu này.
3.4.3.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo cho các Trường, các Tổng Công ty thành viên
Đối tượng của quản lý giáo dục là quá trình giáo dục, theo quan điểm của giáo dục quản lý, các quá trình giáo dục là những hệ thống xã hội, ngẫu nhiên, năng động nên rất phức tạp. Quản lý các đối tượng ấy mà không am hiểu sâu sắc chúng thì không thể quản lý có hiệu quả. Do tính chất của đối tượng quản lý, nên cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục của các trường, của các đơn vị trong Tập đoàn một cách có hệ thống thì mới đáp ứng quy mô ngày càng lớn và yêu cầu về chất lượng ngày càng cao của quá trình đào tạo.
Người cán bộ quản lý đào tạo phải đáp ứng được các phẩm chất sau:
- Có năng lực quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào công tác giáo dục do mình quản lý.
- Có năng lực tổ chức, chỉ đạo hiệu quả các hoạt động giáo dục ở lĩnh vực mình phụ trách.
Về đối tượng đào tạo loại hình quản lý giáo dục thì tốt nhất là chọn những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, có kiến thức kỹ thuật của Ngành, có đạo đức tốt, có thực tiễn giảng dạy đã đạt kết quả tốt. Những cán bộ này vốn có một năng lực nội tại nên có khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn quản lý một cách linh hoạt, sáng tạo. Vì vậy, phương pháp đào tạo là kết hợp đào tạo và tự đào tạo.
- EVN cần tăng cường lực lượng quản lý đào tạo, các chuyên viên phụ trách đào tạo của Tập đoàn cũng như của các đơn vị cần có đầy đủ các chuyên ngành nhiệt điện, thủy điện, phân phối, truyền tải, TBA, xây dựng, điện hạt nhân và chế tạo thiết bị điện, viễn thông và công nghệ thông tin.
Như vậy, một đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo từ EVN đến các trường có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao sẽ là một đóng góp quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo trong Tập đoàn.
3.4.3.4. Xây dựng đội ngũ giảng viên, giáo viên thuộc các cơ sở đào tạo của EVN
Như đã phân tích về nhiệm vụ, chức năng của các trường và vai trò của đội ngũ giảng viên, muốn nâng cao chất lượng đào tạo thì việc lập kế hoạch xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên là hết sức cần thiết. Người giảng viên phải trải qua một quá trình tích lũy kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm giảng dạy và khả năng nghiên cứu khoa học, quá tình tích lũy này bao gồm:
- Quá trình học tập, nghiên cứu thông qua khóa đào tạo cao học, tiến sĩ, phải trải qua nhiều kỳ thi để đạt được các yêu cầu về trình độ của ngạch giảng viên chính, như ít nhất phải có bằng thạc sĩ và chứng chỉ ngoại ngữ trình độ C;
- Quá trình bồi dưỡng để nâng cao hiểu biết về ý thức chính trị, về đường lối phát triển kinh tế xã hội của đất nước, về mục tiêu đào tạo của công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ;
- Quá trình nâng cao trình độ và khả năng nghiên cứu khoa học để có thể đảm nhận vai trò chủ trì nghiên cứu khoa học.
Cụ thể EVN cần:
* Đối với giảng viên ở các trường thuộc EVN
+ Cử giảng viên tham gia vào các lớp tập huấn, các hội nghị, hội thảo về công nghệ mới của ngành và các lĩnh vực có liên quan;
+ Giảng viên được tham gia và trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong và ngoài nước;
+ Lập kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ giảng viên để cập nhật kiến thức hiện đại;
+ Đào tạo kiến thức tin học cho giảng viên để từng bước ứng dụng vào giảng dạy;
+ Khuyến khích và tạo điều kiện cho giảng viên học ngoại ngữ đặc biệt là ngoại ngữ chuyên ngành điện;
+ Giảng viên cần tận dụng ưu thế về lý thuyết khoa học, nghiệp vụ chuyên môn “theo bài bản” và cần gắn liền với thực tiễn.
Trong các trường cao đẳng, trung học, ngạch giáo viên chính, hay giáo viên trung học chính giữ vai trò chủ chốt và nòng cốt trong việc giảng dạy, họ đảm nhận phần lớn khối lượng giảng dạy, là lực lượng quan trọng trong công tác nghiên cứu khoa học. Cần bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên của các trường theo các tiêu chuẩn chức danh do Bộ GD & ĐT ban hành.
* Đối với đội ngũ giáo viên thỉnh giảng thuộc các Tổng Công ty:
Hiện nay, EVN chưa có cơ chế cụ thể cho đội ngũ này, qua thực tế tổ chức các lớp đào tạo, các Tổng Công ty/Đơn vị thuộc EVN đã mời các giáo viên là các chuyên gia của Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), của EVN đến giảng dạy, họ có ưu thế nắm vững chính sách, pháp luật, kỹ thuật, nhất là kỹ thuật mới, có thể giải đáp vướng mắc trong thực tiễn,… Tuy nhiên, họ thường gặp rất nhiều khó khăn về thời gian làm việc tại cơ quan, mặt khác trình độ về nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ này thường yếu, nên bài giảng thường dễ gây buồn chán cho người học. Vì vậy, mỗi giáo viên thỉnh giảng cần học qua chương trình bồi dưỡng sư phạm để họ có thể thường xuyên tham gia giảng dạy tại các trường của EVN.
3.4.3.5. Cải thiện chế độ đãi ngộ, điều kiện làm việc và nghiên cứu của đội ngũ giảng viên khối trường
Giáo viên là người giảng dạy trực tiếp cũng là người quyết định trong việc nâng cao chất lượng đào tạo. Một giảng viên ưu tú đòi hỏi phải giàu về kiến thức và giỏi về chuyên môn sư phạm,… Người ta cho rằng, nghề dạy học đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo; bên cạnh đó, người giáo viên còn phải hoạt động nghiên cứu khoa học. Để đáp ứng các nhiệm vụ trên, người giáo viên phải có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao nghề nghiệp. Vì vậy, việc quan tâm đến điều kiện làm việc và nghiên cứu khoa học của giảng viên là việc làm cần được chú trọng. Trước mắt cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Cần có những chính sách tạo ra động lực mạnh mẽ về vật chất và tinh thần để khuyến khích, động viên các giảng viên hăng say thực hiện nhiệm vụ một cách tự giác và tích cực.
- Đảm bảo các điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết để giảng dạy. Đặc biệt cần biên soạn, dịch và phát hành rộng rãi tài liệu khoa học, sách giáo khoa, tài liệu hướng dẫn sử dụng các phương tiện dạy lý thuyết và thiết bị luyện tập thực hành của ngành Điện. Cung cấp các tài liệu cập nhật về công nghệ sản xuất, sử dụng vận hành và bảo dưỡng máy móc hiện đại.
- Việc biên soạn tài liệu, giáo trình cho công tác đào tạo bồi dưỡng thường xuyên ngắn hạn là vấn đề cần có chủ trương và sự chỉ đạo từ Tập đoàn. Trong những năm qua, giáo trình cho công tác đào tạo bồi dưỡng chưa được xem là giáo trình chính thống. Vì vậy, việc biên soạn, viết giáo trình cho hệ bồi dưỡng thường xuyên (giáo trình nâng bậc), ngắn hạn tiến tới in thành tài liệu chính thống là việc làm cấp thiết mà EVN cần phải thực hiện trong thời gian tới.
- Giao cho Ban Tổ chức & Nhân sự xây dựng kế hoạch triển khai tổng thể trước mắt và lâu dài, cùng với kế hoạch tài chính đáp ứng.
- Phân công cho từng trường tổ chức các nhóm cán bộ biên soạn giáo trình các nghề, phân công giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy bộ môn phối hợp với các giáo sư, chuyên gia đầu ngành tham gia biên soạn, chỉnh lý từng phần hoặc cả môn học.
- Tổ chức hội đồng đánh giá nghiệm thu một cách chặt chẽ (gồm các thành viên hội đồng khoa học EVN, các giáo sư chuyên ngành có nhiều kinh nghiệm giảng dạy, có đại diện của EVN cũng như của các Bộ có liên quan).
Ngoài kinh phí để thực hiện, giải pháp này đòi hỏi một kế hoạch triển khai đồng bộ từ cấp Tập đoàn đến các trường đòi hỏi một đội ngũ cán bộ nghiên cứu giảng dạy nhiều kinh nghiệm…
3.4.3.6. Gắn kết doanh nghiệp với nhà trường và đưa kết quả nghiên cứu khoa học vào phục vụ sản xuất
Hoạt động tự đào tạo về mọi mặt và nghiên cứu khoa học là những hoạt động không thể thiếu được của người giảng viên. Người giảng viên phải không ngừng nâng cao trình độ khoa học, có năng lực tự học hỏi và nghiên cứu khoa học, không ngừng hoàn thiện mình, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, bản thân người giảng viên nếu không “tự đào tạo tốt” thì cũng khó làm cho học viên biết “tự
đào tạo”. Người giảng viên không chỉ tham gia nghiên cứu khoa học mà còn có nhiệm vụ hướng dẫn học viên nghiên cứu khoa học (viết tiểu luận, báo cáo, chuyên đề,…). Muốn đáp ứng được yêu cầu này, người giảng viên phải tham gia nghiên cứu khoa học theo hướng từ thấp đến cao, từ tham gia thực hiện đến chủ trì đề tài, dự án.
Công tác nghiên cứu khoa học đã được lãnh đạo Tập đoàn Điện lực rất quan tâm, hàng năm, EVN (đề tài cấp Tập đoàn) và các đơn vị thành viên (đề tài cấp Tổng Công ty) đã chi một khoản kinh phí không nhỏ cho công tác này, một số đề tài nghiên cứu khoa học của EVN và đơn vị đã được ứng dụng vào thực tế, tuy nhiên vẫn còn nhiều đề tài chưa được áp dụng… để góp phần khắc phục những hạn chế nêu trên, một số biện pháp sau đây có thể sử dụng để tham khảo:
- Tăng cường phổ biến thông tin về phương pháp NCKH cho CB, CNV.
- Xác định các nội dung nghiên cứu, hướng nghiên cứu phù hợp với công nghệ của ngành Điện.
- Kịp thời đưa những kết quả NCKH ứng dụng vào thực tế sản xuất của Ngành và phổ biến cho các đơn vị có liên quan ứng dụng kết quả đạt được, nếu có điều kiện đưa ngay vào giảng dạy chính quy cũng như đào tạo.
Đối với các trường của EVN, cần phải đặt công tác NCKH ngang hàng với công tác đào tạo chính quy, trong lĩnh vực này, cần xác định rõ dạy học và nghiên cứu khoa học là hai nhiệm vụ song song gắn bó chặt chẽ với nhau vì vậy phải thực hiện biện pháp sau:
- Đa dạng hóa các hình thức hoạt động nghiên cứu khoa học phù hợp với khả năng và trình độ của giảng viên như:
+ Biên soạn, rà soát và bổ sung hoàn thiện giáo trình, bài giảng;
+ Viết các báo cáo chuyên đề, chuyên khảo;
+ Tổ chức các thông tin khoa học và báo cáo chuyên đề;
+ Tham gia hoặc chủ trì các đề tài, dự án khoa học cấp trường, cấp Tổng Công ty, cấp EVN, cấp Bộ và cấp Nhà nước.
- Mở rộng quan hệ hợp tác trong NCKH với các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước để có được sự hỗ trợ về vật chất, kinh phí cũng như trao dổi kinh nghiệm và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của giảng viên.
3.5. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.5.1. Đối với Quốc hội và Chính phủ
Đảng ta đã nhất quán trong việc xây dựng đội ngũ công nhân kỹ thuật phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH Đất nước. Các chính sách vĩ mô của Chính phủ rất quan trọng trong việc tác động đến đào tạo nguồn nhân lực CNKT đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên, theo tác giả, cần có những chính sách hết sức cụ thể như:
Chính sách đầu tư thỏa đáng cho Đào tạo nghề, đào tạo CNKT; như Hoa Kỳ, Trung Quốc… Bên cạnh đó, cần có điều chỉnh, sửa đổi hệ thống đào tạo nghề cho phù hợp với thị trường và giai đoạn hội nhập sâu rộng với quốc tế, như: Thể chế hóa chính sách vĩ mô về đào tạo nghề, như Luật Dạy nghề…; triển khai qua các chương trình lớn tầm quốc gia về đào tạo nghề tạo việc làm.
- Có chính sách đầu tư theo hướng xã hội hóa đầu tư đào tạo nghề, đào tạo CNKT theo cụm công nghiệp, theo tập đoàn, doanh nghiệp… làm lòng cốt. Mà doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo lao động theo nhu cầu của ngành, và cho xã hội.
- Xây dựng mô hình đào tạo, hướng nghiệp dạy nghề, phát triển lao động theo hướng hình chóp. Từ hệ Phổ thông cơ sở đến Trung học cơ sở, Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng nghề, đến đào tạo kỹ sư thực hành nghề; chuyên gia thực hành nghề; và đến nhà nghiên cứu.
3.5.2. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Công Thương, Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội, Tổng cục Dạy nghề)
Cần có sự vào cuộc đồng bộ, phối hợp giữa 3 cơ quan:
a) Bộ Công Thương, Bộ Giáo dục, Tổng cục Dạy nghề: là cơ quan đầu mối nghiên cứu tiếp tục triển khai các chương trình trọng điểm trong việc xây dựng và ban hành:
- Hệ thống các chương trình chuẩn quốc gia về Đào tạo CNKT các nghề các lĩnh vực, ngành nghề (trong đó có Công nghiệp điện lực).
- Chuẩn hóa tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo các trường đào tạo nghề (CNKT); các cơ sở đào tạo; các doanh nghiệp.
- Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kỹ năng nghề CNKT các ngành nghề, các lĩnh vực theo hướng thị trường và hòa nhập quốc tế.
b) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Cần có sự nghiên cứu sửa đổi bổ sung, hướng dẫn cơ chế trả lương theo năng lực trình độ kỹ năng nghề, cụ thể đối với hệ thống thang bảng lương CNKT (A1-6-…) nhằm kích thích, tạo động lực cho người CNKT tự đòi hỏi nâng cao trình độ, nâng cao chất lượng đào tạo, chất lượng lao động.
3.5.3. Đối với Tập đoàn điện lực Việt Nam
Tập đoàn điện lực Việt Nam cần có những nghiên cứu triển khai và hoàn thiện các chính sách như:
- Thể chế hóa chính sách đầu tư cho đào tạo, trong đó có đào tạo nghề (CNKT), cần gắn liền với chỉ số xuất đầu tư cho đào tạo trên tỷ lệ đầu tư và phát triển lưới điện; từ đó có chính sách phân bổ tài chính cho đào tạo và triển khai đào tạo đáp ứng nhu cầu cho tương lai.
- Chuẩn hóa các trường đào tạo nghề (CNKT) theo tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo nghề của Bộ LĐ, TB & XH; xây dựng trung tâm đánh giá trực thuộc trường ở 3 miền: Bắc- Trung – Nam.
- Đổi mới và chuẩn hóa các thể chế, chính sách đào tạo tại các doanh nghiệp:
+ Quy chế đào tạo, Qui trình đào tạo;
+ Tiêu chuẩn kỹ năng nghề chức danh CNKT;
+ Sửa đổi qui chế tiền lương, thưởng phần trả lương đối với CNKT; theo hướng trả lương theo năng lực nghề nghiệp (trình độ kỹ năng nghề).
+ Xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo CNKT áp dụng trong toàn Tập đoàn;
+ Sửa đổi; Bổ sung xây dựng Chương trình khung đào tạo CNKT các nghề cho các doanh nghiệp thuộc EVN.