để dùng cho người ... Đồng thời gửi kèm thư là chứng từ chi cho việc dọn dừa hư, chi phí dỡ hàng và lưu kho của số dừa bị hư này.
NHẬN ĐỊNH SƠ LƯỢC:
Với các chứng cứ trên, có căn cứ xác định hai lô hàng dừa tươi lên tàu ngày 22/4/2013 và 27/5/2013 khi đến cảng FELIXSTOWE của Vương Quốc Anh thì hàng đã bị hư hỏng, không thể sử dụng cho người, không bán được, người NK không nhận hàng, phải bỏ đi, như vậy thiệt hại là có thật và thiệt hại chín h là giá trị của 02 lô hàng mà Nguyên đơn đã thỏa thuận mua bán với khách hàng với tổng giá trị là 26.269 USD, nếu quy đổi theo tỷ giá tại thời điểm xét xử thì cao hơn so với yêu cầu của nguyên đơn, do đó xác định thiệt hại của 02 lô hàng theo quy đổi của nguyên đơn là 555.063.970 VND.
Về các chi phí khác phát sinh sau khi người NK từ chối nhận do hàng bị hư hỏng, trên thực tế Nguyên đơn đã phải trả chi phí để giải quyết hậu quả. Xem xét các chứng từ Nguyên đơn xuất trình, nhận thấy các chứng từ hợp pháp và có căn cứ xác định tổng thiệt hại phát sinh.
Về nguyên nhân thiệt hại, theo báo cáo khảo sát của khảo sát viên- nhân viên Lloyd thì có khả năng thời gian vận chuyển 38 ngày (22/4 đến 30/6/2013) là yếu tố quan trọng gây hậu quả trong vụ việc này. Người được bảo hiểm cho rằng thời gian vận chuyển trong khu vực là 26 ngày thêm vào thời hạn sử dụng của sản phẩm. Không có thông tin về nhiệt độ của lô hàng này do đó không thể nói đây là một yếu tố nguyên nhân thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm của người chuyên chở HH bằng đường biển theo BLHHVN 2005.
Tuy nhiên, theo HĐ của hai công ty, hàng dừa tươi, theo ông Vệ thì nhiệt độ đã được Bị đơn cài đặt đúng theo yêu cầu của Nguyên đơn, nhưng theo thư điện tử của bên nhận hàng thì container không có nhiệt độ. Như vậy có căn cứ để xác định dừa bị hư hỏng nguyên nhân chính là do thời gian vận chuyển kéo dài, chậm trễ trong việc giao hàng. Bên cạnh đó có nguyên nhân Bị đơn không cài đặt nhiệt độ theo đúng yêu cầu của chủ hàng trong suốt thời gian vận chuyển.
PHÁN QUYẾT CỦA TÒA ÁN
- HH có khả năng hư hỏng do bên B (Bị đơn-Công ty Linh Chi) làm việc với hãng tàu cài đặt nhiệt độ và thông gió cho Container không đúng với yêu cầu của bên A (Nguyên đơn-Công ty Hương My).
- Bên B có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên A do bên B booking (đặt lịch tàu) bị delay (chậm trễ) ảnh hưởng đến thời gian bảo quản HH của bên A (trừ
Có thể bạn quan tâm!
- Tốc Độ Tăng Trưởng Ngoại Thương So Với Năm Trước Và Năm Gốc 2010
- Bất Cập Về Quy Định Miễn Trách Nhiệm Của Người Chuyên Chở Theo Hợp Đồng Vận Chuyển Hàng Hóa Bằng Đường Biển Trong Bộ Luật Hàng Hải Việt Nam
- Nghiên cứu các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam - 13
- Phân Tích Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Khả Năng Ứng Phó Của Doanh Nghiệp Xuất Khẩu Việt Nam Khi Người Vận Chuyển Gặp Trường Hợp Miễn Trách Theo
- Những Vấn Đề Đặt Ra Đối Với Các Doanh Nghiệp Xuất Khẩu Của Việt Nam
- Chưa Chú Trọng Đào Tạo Đội Ngũ Chuyên Sâu Về Nghiệp Vụ Xuất Nhập Khẩu, Nghiệp Vụ Vận Tải, Giao Nhận.
Xem toàn bộ 197 trang tài liệu này.
trường hợp bất khả kháng).
- Xem xét về nguyên nhân gây hư hỏng 02 lô hàng dừa tươi mà Bị đơn thực hiện HĐ vận chuyển cho Nguyên đơn là do lỗi hoàn toàn thuộc về Bị đơn khi thực hiện HĐ đã không làm hết trách nhiệm trong việc theo dòi lịch trình vận chuyển hàng, đặt lịch tàu chậm trễ khiến hàng bị rớt lại cảng chuyển tải, làm cho thời gian vận chuyển kéo dài so với thời gian dự kiến và không phù hợp với thời hạn vận chuyển theo thông lệ chung trong khu vực đối với loại HH là thực phẩm tươi.
- Không có nguyên nhân thuộc trường hợp bất khả kháng, trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường được quy định tại Điều 237 Luật Thương mại 2005 về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics và quy định tại Điều 294 Luật Thương mại 2005 về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm cũng như quy định tại Điều 78 BLHHVN 2005 (tương đương Điều 151 BLHHVN 2015) về các trường hợp miễn trách nhiệm của người chuyên chở HH bằng đường biển.
- Do đó căn cứ vào khoản 2 Điều III của HĐ Logistics ngày 25/03/2013, căn cứ Điều 302 Luật thương mại 2005 và Điều 108 BLHHVN 2005 (tương đương Điều 185 BLHHVN 2015), chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn buộc Bị đơn bồi thường giá trị 02 lô hàng bị hư hỏng, không bán được và toàn bộ các chi phí phát sinh giải quyết hậu quả đó. Tổng giá trị phải bồi thường là 26.269 USD, tương đương 555.063.970 VND và 8,136.19 GBP, tương đương 296.897.058 VND. Tổng cộng là 851.961.028 VND, trong đó:
+ Bồi thường thiệt hại giá trị 2 lô hàng dừa tươi bị hư hỏng là 26.269 USD
+ Bồi thường cước vận chuyển của vận đơn ngày 22/4/2013 là 2612,91 GBP. Chi phí giám định lô hàng là 525 GBP. Chi phí thuê lao động là 216 GBP, cộng chung là 3.353,91 GBP. Cước vận chuyển của vận đơn ngày 27/5/2013 là 2.473,48 GBP. Chi phí tiêu hủy hàng bị hỏng là 2.092,8 GBP. Chi phí thuê lao động là 216 GBP, cộng chung là 4.782,28 GBP. Tổng thiệt hại phát sinh là 8.136,19 GBP.
- Đối với yêu cầu của Nguyên đơn về việc Bị đơn phải trả lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ bồi thường (Theo Điều 305 Luật dân sự 2015) theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm hiện hành là 9%/năm, tương đương 0,75%/tháng từ tháng 01/2014 đến 11/9/2014, bằng 53.481.854 VND. Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn.
- Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí là 37.558.830 VND. Nguyên đơn nộp án phí là 2.674.092 VND, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 13.101.279 VND mà Nguyên đơn đã nộp theo biên lai thu ngày 23/4/2014. Thi hành án dân sự sẽ trả lại Nguyên đơn số tiền còn lại là
10.427.187 VND.
NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC
Như vậy, theo chuyên gia Trần Thanh Hải, Bộ Công Thương, ở vụ việc này, nhờ việc nắm rò từng trường hợp miễn trách nhiệm của người vận chuyển HH theo HĐ vận chuyển bằng đường biển mà chủ hàng XK đã không bị mất số tiền tương đương với tổn thất của 02 lô hàng dừa tươi bị hỏng do người vận chuyển đường biển giao chậm. Ngoài ra, DN XK VN còn đòi được tiền bồi thường từ người vận chuyển đường biển cho chi phí tiêu hủy hàng hỏng, chi phí giám định và cả khoản cước phí mà họ đã bỏ ra thuê người vận chuyển đường biển chuyên chở 02 lô hàng dừa tươi đến cảng NK là Felixstowe, Anh Quốc.
Từ vụ tranh chấp này, NCS nhận thấy việc vận chuyển HH bằng đường biển quốc tế thường phải trải qua thời gian dài từ bốc xếp, chuyển tải cho đến dỡ hàng. Tàu biển phải đi qua nhiều cảng với thời tiết khác nhau và do đó HH có thể bị tác động, bị hư hỏng do giao chậm. Trong vụ tranh chấp này, không có bên nào được hưởng các trường hợp miễn trách nhưng việc căn cứ vào HĐ vận chuyển HH để quy trách nhiệm cho các bên đóng vai trò quan trọng. Nguyên đơn trong vụ việc này là một DN XK VN đã thực hiện biện pháp cung cấp chứng cứ để yêu cầu DN vận chuyển bồi thường thiệt hại do giao hàng chậm so với quy định trong HĐ.
Vụ thứ ba: Tranh chấp về việc đòi bồi thường tiền hàng hóa bị mất trong quá trình vận chuyển bằng đường biển (Bản án 94A/2008/KT-PT ngày 29/04/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội).
CÁC BÊN
Nguyên đơn: Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (Công ty Pjico); trụ sở số 532 đường Láng, quận Đống Đa, Hà Nội do ông Nguyễn Viết Sơn làm đại diện
Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vận tải viễn dương Vinashin; trụ sở Lô CC1-I.3.1 khu đô thị mới Pháp Vân, Tứ Hiệp, quận Hoàng Mai, Hà Nội, do bà Trương Thanh Thủy làm đại diện
Luật sư: Lý Quang Long, Bùi Quang Hưng – Văn phòng luật sư Bùi Quang Hưng và cộng sự thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội bảo vệ quyền lợi cho công ty Petrolimex.
TÓM TẮT VỤ VIỆC
- Ngày 25/3/2005, Tổng Công ty lương thực Miền Bắc (Vinafood 1) có ký HĐ thuê tàu với Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy VN (Vinashin) để vận chuyển lô hàng gạo từ VN sang Cu Ba. Tàu được chỉ định vận chuyển là Vinashin Sun thuộc quyền quản lý của Công ty vận tải biển Vinashin nay là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vận tải viễn dương Vinashin (Vinashinlines).
- Ngày 22/4/2005, tàu Vinashin Sun đã phát hành vận đơn số 08/ALP/05 vận chuyển lô hàng gạo với tổng trọng lượng 9.000 MT được đóng thành 180.000 bao từ cảng Sài Gòn tới một hoặc hai cảng an toàn tại Cu Ba. Bên được thông báo là Alimport, Havana – Cu Ba. Cùng ngày 22/4/2005 Vinafood 1 cũng đã ký HĐ bảo hiểm số 05/HNO/HHA/1120/0083 với Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (Pjico) bảo hiểm rủi ro cho lô hàng nêu trên.
- Ngày 11 và 23 tháng 6 năm 2005, tàu Vinashin Sun đã lần lượt cập cảng Havana và Nuevitas của Cu Ba để dỡ toàn bộ lô hàng. Sau khi hoàn tất việc dỡ hàng, tổn thất lô hàng đã được phát hiện.
- Theo biên bản giám định số M05/138/AL ngày 17/8/2005 của Công ty giám định Marinter S.A, Cu Ba (do Pjico chỉ định) thì tổn thất HH được phát hiện là thiếu hụt 131.528 MT, trong đó thiếu nguyên bao là 2.395 bao, tương đương 119.750 MT.
- Ngày 12/9/2005, trên cơ sở đơn bảo hiểm đã được Vinafood ký hậu chuyển hợp pháp, Alimport đã yêu cầu Pjico thanh toán tiền bảo hiểm tổn thất đối với lô hàng gạo là 60.732,86 USD.
- Pjico với tư cách là người bảo hiểm đã tiến hành bồi thường cho Alimport số tiền 60.732,86 USD, bao gồm các khoản:
+ Giá trị hàng tổn thất: 59.331,62 USD;
+ Chi phí xử lý hàng tổn thất: 1.373,46 USD;
+ Phí xác nhận thư kháng cáo: 27,78 USD.
- Ngày 09/02/2006, Alimport gửi giấy biên nhận và thế quyền xác nhận đã nhận đầy đủ số tiền bồi thường. Đồng thời chuyển giao tất cả quyền của mình cho Pjico liên quan đến yêu cầu đòi bồi thường đối với tổn thất lô hàng gạo được vận chuyển lên tàu Vinashin Sun theo vận đơn số 08/ALP/05 ngày 22/4/2005 do Công ty Vinashin phát hành.
- Ngày 15/02/2006, Pjico với tư cách là người thế quyền đã gửi công văn số 214/GD-BT/2006 tới Công ty Vinashin yêu cầu bồi thường số tiền là 60.732,86 USD.
- Ngày 04/4/2006, Công ty Vinashin đã gửi công văn số 285/CV-VTVD-PC tới Bảo hiểm VN (Bảo Việt) là người bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu Vinashin Sun yêu cầu Bảo Việt thay mặt Vinashin giải quyết bồi thường.
- Ngày 29/5/2006, Bảo Việt đã gửi Công văn số 273/TT/BHVN từ chối bồi thường với lý do tàu được miễn trách với lô hàng này.
- Ngày 12/6/2007 và ngày 23/8/2007, Công ty cổ phần bảo hiểm Pjico gửi đơn khởi kiện đề nghị Tòa án buộc Vinashin và Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy VN phải bồi thường toàn bộ tổn thất của lô hàng gạo được vận chuyển trên tàu Vinashin Sun với số tiền là 60.732,86 USD.
TRANH TỤNG TẠI TÒA SƠ THẨM
- Nguyên đơn do ông Nguyễn Viết Sơn đại diện theo ủy quyền trình bày:
Theo Điều 73, khoản 2 BLHHVN 2005 có quy định: Vận đơn là bằng chứng về việc người vận chuyển đã nhận hàng theo số lượng, chủng loại, tình trạng ghi rò trong vận đơn để vận chuyển đến nơi trả hàng. Người vận chuyển có quyền từ chối ghi vào vận đơn sự mô tả về HH nếu có căn cứ nghi ngờ tính chính xác về lời khai báo của người giao hàng ở thời điểm bốc hàng hoặc khi không có điều kiện xác minh. Vinashinlines là người phát hành vận đơn không có bất kỳ nhận xét nào với lô hàng này. Do vậy, Pjico đề nghị bên vận chuyển phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bên thuê vận chuyển tài sản bị mất mát và hư hỏng nêu trên.
- Bị đơn, do ông Đặng Huy Dũng đại diện theo ủy quyền, trình bày:
Ngày 21/01/2003, Bị đơn đã có quyết định số 78/CNT/KDĐN ủy quyền cho Công ty Vinashinlines được quyền quản lý, khai thác tàu Vinashin Sun. Do vậy, Công ty Vinashinlines có quyền ký các HĐ thuê tàu với khách hàng. Để xác định HĐ thuê tàu ngày 25/3/2005 do Bị đơn - Tập đoàn công nghiệp tàu thủy VN, nay là Công ty Vinashinlines- ký, đề nghị Nguyên đơn cung cấp HĐ bản chính để xác minh chữ ký và con dấu của pháp nhân, từ đó mới có cơ sở để Bị đơn tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn trong vụ kiện.
Tại phiên tòa ông Đặng Huy Dũng đại diện cho Bị đơn cho rằng Nguyên đơn khởi kiện Bị đơn- Tập đoàn công nghiệp tàu thủy VN- với tư cách là đồng bị đơn là không có căn cứ vì Bị đơn không phải là đơn vị phát hành vận đơn.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vận tải viễn dương Vinashin, do bà Trương Thanh Thủy đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 25/3/2005 Vinafood 1 có ký HĐ thuê tàu với Bị đơn và chỉ định tàu Vinashin Sun vận chuyển lô hàng gạo của Vinafood 1 sang Cu Ba. Ngày 22/4/2005
việc xếp hàng lên tàu được hoàn thành. Cùng ngày, Công ty Vinashinlines có gi ám sát việc dỡ hàng nhưng không kiểm đếm. Toàn bộ số lượng, trọng lượng ghi trên vận đơn trên cơ sở do Vinafood 1 khai báo. Hơn nữa tại mặt trước của vận đơn cũng quy định: “chi tiết về số lượng, chất lượng HH được tuyên bố bởi người giao hàng”; “cân nặng, số lượng, tình trạng, nội dung, giá trị như đề cập trong vận đơn chúng tôi không biết trừ khi có bằng chứng hoặc thỏa thuận trái ngược. Việc ký phát vận đơn này không được coi là thỏa thuận trái ngược đó”.
Ngày 11/6/2005, hàng bắt đầu được dỡ tại cảng Havana, theo Biên bản giám định số 05/138/AL ngày 17/8/2005 của Marinter, ngày 11/6/2005 đã phát hiện việc thiếu hụt HH, ngày 22/6/2007 Bị đơn mới có đơn khởi kiện là đã quá thời hiệu 02 năm được quy định tại Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự 2005. Hơn nữa, số tiền Pjico đã trả cho Vinafood 1 trên cơ sở đơn bảo hiểm bán theo giá 110% CIF. Người chuyên chở không phải chịu hoàn toàn số tiền này.
Từ những cơ sở trên, tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 129/2007/KTST ngày 06/11/2007 Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:
Căn cứ vào Điều 159; Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 73; khoản 3 Điều 77; khoản 1 Điều 235 BLHHVN
2005 (tương đương khoản 2 Điều 148, khoản 3 Điều 173, khoản 1 Điều 314
BLHHVN 2015);
Căn cứ Nghị định 70/CP của Chính phủ ngày 12/6/1997 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn về việc đòi bồi thường tổn thất lô hàng gạo được vận chuyển trên tàu Vinashin Sun theo vận đơn số 08/ALP/05 ngày 22/4/2005 của Bị đơn.
2. Buộc Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn số gạo bị mất mát, thiếu hụt và các khoản chi phí khác với tổng số tiền là 59.334,13 USD (năm mươi chín nghìn ba trăm ba mươi tư đô la Mỹ, mười ba cent). Số tiền này sẽ được quy đổi ra tiền đồng VN theo tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước VN công bố tại thời điểm thanh toán.
3. Bác các yêu cầu khác của các đương sự.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 22/11/2007 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vận tải biển Vinashin kháng cáo đề nghị Tòa án cấp Phúc thẩm xét xử lại vụ kiện theo hướng hủy bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa Phúc thẩm, người đại diện hợp pháp cho Tập đoàn Vinashin là bà Trương Thanh Thủy trình bày nội dung kháng cáo như sau:
1. Nguyên đơn không có quyền khởi kiện vì theo quy định tại khoản 1 Điều 70 BLHHVN 2005 (tương đương khoản 1 Điều 145 BLHHVN 2015) quy định: “HĐ vận chuyển HH bằng đường biển là thỏa thuận được giao kết giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển, theo đó người vận chuyển thu giá dịch vụ vận chuyển do người thuê vận chuyển trả và dùng tàu biển để vận chuyển HH từ cảng nhận hàng đến cảng trả hàng”. Như vậy HĐ vận chuyển HH chỉ có hai chủ thể đó là người vận chuyển và người thuê vận chuyển.
Trong vụ kiện này Vinafood 1 là người thuê vận chuyển, do vậy Nguyên đơn không phải là chủ thể trong vụ kiện này.
2. Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng quyền tố tụng được quy định tại điểm d Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự, đó là: “Được biết và ghi chép, sa o chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập”. Chúng tôi nhận thấy bản dịch của vận đơn 08/ALP/05 là không chính xác theo hướng bất lợi cho bị đơn. Tòa án cấp sơ thẩm không cung cấp cho bị đơn HĐ thuê tàu, do vậy bị đơn gặp nhiều khó khăn.
3. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng vào vụ án.
a) Có sự mâu thuẫn giữa kết luận giám định và xác nhận của thuyền trưởng của tàu Vinashin Sun.
Trong biên bản HH hư hỏng ngày 28/6/2005 với kết luận của Công ty giám định, cụ thể thuyền trưởng đã ghi ý kiến phản đối: “Tất cả HH đã được dỡ tại cảng Havana và Nuevitas theo đúng như giấy lược khai HH, tàu không có trách nhiệm đối với HH được dỡ tại cảng”.
b) Kết luận giám định không rò ràng:
Biên bản giám định ghi tổng số 130.295 MT hàng, 8,53 MT hàng thiếu hụt là quy cho tàu do bao bị rách và tuột chỉ chứ không phải mất hàng.
Biên bản giám định không có kết luận rò ràng do tàu, do cảng hay do người bán hàng giao thiếu hàng.
Đề nghị Tòa triệu tập người giám định (Công ty Marinter) tham gia phiên tòa.
4. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án chưa có đủ chứng cứ cần thiết.
a) Thiếu một phần của HĐ thuê tàu ngày 25/3/2005 quy định: những điều khoản khác chưa được quy định tại đây thì sẽ được điều chỉnh theo mẫu HĐ thuê tàu Gencon 1994. Chúng tôi đã yêu cầu tòa sơ thẩm yêu cầu nguyên đơn cung cấp
các điều khoản mẫu Gencon 1994 nhưng Tòa sơ thẩm đã từ chối yêu cầu này.
b) Thiếu biên bản giám định cuối cùng. Đề nghị Tòa yêu cầu Nguyên đơn cung cấp biên bản giám định cuối cùng. Đề nghị Tòa phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm số 129/2007/KDTM-ST ngày 05/11/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và đình chỉ giải quyết vụ án vì Nguyên đơn không có quyền khởi kiện.
Đại diện hợp pháp của Nguyên đơn: ông Nguyễn Viết Sơn không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người đại diện cho tập đoàn Vinashin với lập luận sau:
- Theo vận đơn số 08/ALP/05 ngày 22/4/2005 thì tàu Vinashin đã nhận đủ
9.000 MT gạo được đóng thành 180.000 bao vận chuyển từ Sài Gòn sang Cu Ba.
- Căn cứ theo khoản 1 Điều 81 BLHHVN 1990 thì người vận chuyển và phát hành vận đơn phải chịu trách nhiệm về số lượng HH được ghi trên vận đơn kể từ khi phát hành vận đơn cho đến khi giao hàng cho người được hưởng ghi trên vận đơn (Alimport).
- Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ, kết quả việc thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của nguyên đơn, bị đơn và của luật sư, tòa án đã có nhận xét sau:
- Nguyên đơn Công ty Pjico không có thẩm quyền khởi kiện:
Căn cứ vào HĐ mua bán ngoại thương số 4962-2605 ngày 03/11/2004 bên bán Vinafood 1 với Công ty Alimport của Cu Ba thì Vinafood 1 bán cho Alimport
9.000 MT gạo, được đóng thành 180.000 bao.
Ngày 22/4/2005 Vinafood 1 ký HĐ bảo hiểm với Nguyên đơn để bảo hiểm mọi rủi ro cho lô hàng trên.
Đại diện của Vinafood 1 trình bày: HĐ ngoại thương giữa Vinafood 1 và Alimport được mua bán theo điều kiện CIF (tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí vận chuyển). Như vậy Vinafood 1 phải có trách nhiệm mua bảo hiểm cho lô hàng từ cảng đi cho đến cảng dỡ hàng.
Theo biên bản giám định số M05/138/AP ngày 17/8/2005 của Công ty giám định Marinter S.A, tổng lượng hàng thiếu hụt là 131.528 MT, trong đó thiếu nguyên bao là 2.395 bao, tương đương 119.750 MT gạo.
Khoản 1 Điều 108 BLHHVN 1990 quy định: “Người vận chuyển có nghĩa vụ chăm sóc chu đáo HH và chịu trách nhiệm về các tổn thất do hư hỏng, mất mát HH từ khi nhận bốc lên tàu cho đến khi giao cho người nhận hàng. Người vận chuyển có nghĩa vụ bồi thường tổn thất HH, nếu không chứng minh được rằng mình không có