Cơ Sở Hình Thành Tín Ngưỡng Và Văn Hóa Tín Ngưỡng


Trong luận văn này, văn hóa tín ngưỡng được hiểu theo cách giải thích của Giáo Sư Ngô Đức Thịnh.

1.1.2 Cơ sở hình thành tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng

Đối chiếu tín ngưỡng với tôn giáo và xác định sự khác biệt giữa chúng là một công việc cần thiết trong việc xác định cơ sở hình thành tín ngưỡng.

Tín ngưỡng đôi khi được hiểu là tôn giáo do các nhà nghiên cứu xem xét lại các khái niệm khác nhau giữa quan điểm về tôn giáo – tín ngưỡng của cách phân loại văn hóa Đông - Tây. Nhìn chung các quan điểm về tôn giáo – tín ngưỡng cho rằng điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian nhiều hơn tôn giáo. Tín ngưỡng không có tổ chức chặt chẽ và có giáo đường như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn giáo thì thường là không mang tính dân gian. Tín ngưỡng không có một hệ thống điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời rạc. Tín ngưỡng nếu phát triển đến một mức độ nào đó thì có thể thành tôn giáo. Một số nhà nghiên cứu xem tín ngưỡng là một loại “tôn giáo sơ khai, tôn giáo nguyên thủy”. Với vai trò là cơ sở của mọi tôn giáo, tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng vọng của con người vào những cái "siêu nhiên" (hay nói gọn lại là "cái thiêng") - cái đối lập với cái "trần tục", cái hiện hữu mà con người có thể sờ mó, quan sát được. Niềm tin vào "cái thiêng" thuộc về bản chất con người, nó ra đời và tồn tại, phát triển cùng với con người và loài người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng giống như đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm...

Giáo sư Trần Ngọc Thêm cho rằng, tín ngưỡng được đặt trong văn hóa tổ chức đời sống cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng: “Tổ chức đời sống cá nhân là bộ phận thứ hai trong văn hóa tổ chức cộng đồng. Đời sống mỗi cá nhân trong cộng đồng được tổ chức theo những tập tục được lan truyền từ đời này sang đời khác (phong tục). Khi đời sống và trình độ hiểu biết còn thấp, họ tin


tưởng và ngưỡng mộ vào những thần thánh do họ tưởng tượng ra (tín ngưỡng). Tín ngưỡng cũng là một hình thức tổ chức đời sống cá nhân rất quan trọng. Từ tự phát lên tự giác theo con đường quy phạm hóa thành giáo lý, có giáo chủ, thánh đường… tín ngưỡng trở thành tôn giáo. Ở xã hội Việt Nam cổ truyền, các tín ngưỡng dân gian chưa chuyển được thành tôn giáo theo đúng nghĩa của nó - đó là những mầm mống của những tôn giáo như thế - đó là Ông Bà, đạo Mẫu. Phải đợi khi các tôn giáo thế giới như Phật, Đạo, Kitô giáo… đã được du nhập và đến thời điểm giao lưu với phương Tây, các tôn giáo dân tộc như: Cao Đài, Hòa Hảo mới xuất hiện” [13, tr. 263].

Như vậy cơ sở hình thành tín ngưỡng, như đã được chỉ ra trong định nghĩa của E.B Taylor (phần định nghĩa tín ngưỡng) và G.S Trần Ngọc Thêm là được hình thành khi nhận thức của con người chưa được hoàn thiện và phát triển như hiện tại; tín ngưỡng xuất hiện khi triết học và khoa học chưa cung cấp đầy đủ tri thức về thế giới, về con người và vị trí của con người trong thế giới đó. Nhận thức sơ khai về các hiện tượng tự nhiên, xã hội vẫn còn sơ đẳng, mang đậm tính huyền thoại dẫn đến việc thiêng hóa và tôn thờ. Trải qua thời gian và lớp lăng kính di truyền văn hóa, hiện nay tín ngưỡng đã trở thành một hình thức văn hóa

– văn hóa tín ngưỡng tồn tại lâu bền trong xã hội loài người.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

Nếu chỉ nhìn nhận dưới góc độ triết học, khoa học; tín ngưỡng và đôi khi tôn giáo chỉ đơn thuần là một biểu hiện nhận thức lạc hậu của con người, không phù hợp với quan điểm duy vật của hệ tư tưởng Marxist. Tuy nhiên đứng dưới lăng kính văn hóa, tín ngưỡng là những di sản văn hóa biểu lộ đặc trưng tri thức truyền thống, thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan của những thế hệ trước; phần nào còn tồn tại trong tâm thức của xã hội hiện đại. Đặc biệt khi trở thành văn hóa tín ngưỡng, giá trị của chúng còn mang tính bảo tồn và duy trì đường vạch nối giữa quá khứ - hiện tại, giữa các thế hệ đi trước - thế hệ hiện tại – thế hệ tương lai, góp phần định hình lên bản sắc các nền văn hóa.

1.1.3 Các hình thức biểu hiện của tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng

Nghiên cứu các giá trị văn hóa tín ngưỡng ở phía tây Hà Nội Hà Tây cũ nhằm phát triển du lịch - 3


- Tín ngưỡng vạn vật hữu linh: Từ thời cổ đại đã xuất hiện học thuyết nói về linh hồn, đó là thuyết vật linh (Animism). Theo thuyết này thì tất cả mọi loài, mọi thứ trên trái dất từ con người đến con thú, những vật vô tri vô giác như cỏ cây , đất đá cũng đều có linh hồn . Quan niệm này tồn tại trong dân gian qua các câu nói, viết : " Hồn thiêng sông núi " “Hồn nước "...Tuy nhiên tùy theo phong tục tập quán mỗi quốc gia mà sự định nghĩa và tin tưởng có vài khác biệt, điểm quan trọng nhất trong niềm tin đó là con người tin tưởng rằng vạn vật đều có linh hồn bất diệt, kể cả con người.

Đối với các nhà triết học cổ đại như Platon, Pythagore, Hereclite, Empedocles, Aristote Epicure ...họ đều có nghiên cứu và đề cập nhiều đến linh hồn và coi linh hồn như là một thể quan trọng trong sự chuyển hóa đời sống . Về sau có Ploton, Descarts, Pascan, Schopenhauer, Ralph Waldo Emerson, Prederic Wlliam Henry Myers...tiếp nối sự nghiên cứu tìm hiểu cũng như tin tưởng vào sự hiện hữu của Linh hồn.

Người Việt Nam, theo truyền thống quan niệm rằng cơ thể con người gồm 3 thể thống nhất :

- Thể xác - là phần cơ thể hữu hình, bao gồm lục phủ, ngũ tạng, hệ kinh lạc và các giác quan.

- Thể vía - là phần cơ thể 1/2 hữu hình , 1/2 vô hình. Mắt thường không thể nhìn thấy được nhưng có thể cảm nhận được vì thể vía chính là phần sinh nhiệt của cơ thể sống. Trong quá trình sống, các tế bào không ngừng trao đổi chất, mà chúng ta biết các phản ứng hóa học trong quá trình trao đổi chất đều sinh nhiệt .

- Thể hồn ( Hay còn gọi là Linh hồn ) là một khái niệm để chỉ một biểu tượng mơ hồ, ảo ảnh của một cá thể động vật cao cấp, chủ yếu là con người và một số loại cây cổ thụ đã chết, nhưng vẫn hiện diện tính thiêng, kính cẩn, luôn thường trực trong tâm trí con người; mà nhiều khi do chính tâm lý thương nhớ, tôn vinh của người sống tạo ra.


Ba bộ phận này khác nhau trong cách hiểu của người Việt, nếu thiếu một trong ba số chúng, con người không thể sống được hoặc ít nhất cũng bị bệnh tật, tai ách.

Đặc thù của tín ngưỡng vạn vật hữu linh là nhấn mạnh đến sự hiện hữu linh hồn ở mọi sự vật, hiện tượng trong toàn bộ giới tự nhiên chứ không chỉ có trong đời sống văn hóa tâm linh, tư tưởng con người. Do đó xuất hiện những hình thức tín ngưỡng cụ thể gắn với một hay nhiều đối tượng cụ thể.

- Tín ngưỡng thờ thần mặt trời: Từ thời nguyên thủy, mặt trời được tôn vinh là vị thần linh thiêng. Mặt trời mang lại cho con người ánh sáng, niềm tin, hơi ấm và xua đuổi đêm tối, tà khí, hồi sinh sự sống. Trong các trống đồng cổ của người Việt, biểu tượng mặt trời luôn nằm vị trí trung tâm trên bề mặt và con người, muông thú được chạm khắc xung quanh biểu tượng ngôi sao nhiều cánh đó. Mặc dù là một hình thức tín ngưỡng cổ xưa nhưng hiện nay hình thức tín ngưỡng này vẫn còn hiện hữu trong một số nghi lễ truyền thống trong sinh hoạt làng xã ở Việt Nam do đặc tính di truyền văn hóa của xã hội loài người.

- Tín ngưỡng thờ đá: Đá được suy tôn kể từ khi con người biết sử dụng công cụ lao động chế tác từ đá thời nguyên thủy. Là một công cụ lao động mang lại hiệu quả cao, cộng với việc sử dụng các hòn đá đập vào nhau, con người có thể tạo ra lửa. Đá được coi là có sức mạnh siêu nhiên, được con người tôn thờ và được coi là vật thiêng, dùng để trấn áp các lực lượng đen tối nên được cắm quanh mộ người chết (người Mường cổ). Một số địa phương cất hòn đá vào điểm thờ tự công cộng như đình, miếu. Người Việt – Mường tạc tượng chó đá để trấn áp tà khí. Ngày nay, tín ngưỡng thờ đá còn biểu hiện qua việc thiêng hóa những nhũ đá trong các hang động có gắn liền với điểm di tích tôn giáo và tín ngưỡng.

- Tín ngưỡng thờ cây: Con người cho rằng mọi cây cổ thụ đều có linh hồn, đặc biệt những cây cổ thụ có vị trí nơi vắng vẻ thường là nơi cư trú của những linh hồn lang thang không nơi nương tựa. Xúc phạm đến cây cổ thụ là động đến

18


những linh hồn đó và cuộc sống con người sẽ không được yên ổn. Cây cổ thụ thường gắn với miếu, đình và được xem là một biểu tượng linh thiêng trong tâm thức con người từ xa xưa.

Tín ngưỡng vạn vật hữu linh còn có nhiều biểu hiện khác như totem giáo hoặc được biểu hiện qua phong tục tập quán truyền thống như: tục thờ cúng tổ tiên, tục thờ “hồn cây Đa, ma cây Gạo”… Tính đa dạng của nó còn được thể hiện rất cụ thể trong nếp sống văn hóa, đất lề quê thói vẫn còn tồn tại đến ngày nay ở từng dân tộc sinh sống trên dải đất hình chữ S. Trong quá trình tiếp xúc văn hóa, tín ngưỡng vạn vật hữu linh cũng du nhập những nghi lễ của các tôn giáo lớn như đạo Phật, đạo Giáo… theo hướng thế tục hóa.

- Tín ngưỡng thờ tứ pháp ở Việt Nam có nguồn gốc văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước, do đó các hiện tượng tự nhiên có tác động mạnh mẽ đến mùa màng được người Việt tôn sùng, thờ cúng. Trong số các hiện tượng tự nhiên thì mây, mưa, sấm, chớp có quan hệ trực tiếp đến sản xuất đảm bảo sự sinh tồn của vạn vật muôn loài. Bốn hiện tượng tự nhiên mây, mưa, sấm, chớp nếu “hòa cốc phong đăng” thì tạo ra thuận lợi mang lại nguồn lực cho vạn vật sinh sôi nảy nở, cho mùa thu hoạch thắng lợi. Ngược lại nếu mây mưa sấm chớp quá mức cần thiết hoặc không có thì lụt úng, hạn hán khiến cây cỏ, vật nuôi, muông thú…khô héo, thậm chí là bị tiêu diệt. Trong quá trình tiếp biến văn hóa, khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, người Việt đã khéo léo kết hợp tín ngưỡng dân gian bản địa này nhập thân vào những vị Phật trong chùa, tạo ra đặc điểm Phật giáo Việt Nam. Điều này thể hiện khá rõ ở các tỉnh trung du và đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt ở Hà Nội (cũ), Hà Tây (cũ), Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nam… Hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong tín ngưỡng Tứ Pháp đã được linh thiêng hóa như bà Đanh, bà Dâu, bà Đậu và bà Tướng. Các vị thần này cũng là biểu hiện tâm lý coi tự nhiên là mẹ và thái độ sống hòa hợp với thiên nhiên của người Việt.

- Tín ngưỡng thờ mẫu: Cho dù có một thời kỳ tương đối dài tiếp xúc với nền Nho học du nhập từ quốc gia phương bắc, văn hóa bản địa người Việt vẫn

19


lưu giữ những đặc thù truyền thống lâu đời như ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ, tâm thức coi trọng phụ nữ và vai trò của họ trong gia đình, cộng đồng. Biểu hiện tiêu biểu của tâm thức này là tín ngưỡng thờ mẫu với hàng loạt các công trình kiến trúc tín ngưỡng trải dài khắp mọi miền tổ quốc. Tín ngưỡng thờ Mẫu thường được thể hiện qua thờ Tam Phủ, Tứ Phủ và hình thức tín ngưỡng này vẫn tồn tại mạnh mẽ trên mọi miền đất nước.

- Tín ngưỡng Phồn thực: Với mong muốn vạn vật sinh sôi nảy nở, đặc biệt là những vật nuôi, cây trồng gắn liền với đời sống nông nghiệp của con người; người Việt Nam đã phát triển quan niệm cho rằng sự sinh nở đều khởi nguồn từ các bộ phận sinh thực khí. Quan niệm tôn thờ vật thể tạo ra sự đơm hoa kết trái, nên biểu tượng “âm dương hòa khí” dẫn đến sinh sản trở thành động lực sáng tạo ra những nghi thức, nghi lễ gắn liền với quan niệm đó. Sinh thực khí có mạnh, giống nòi mới khỏe, mọi vật mới trưởng thành mạnh mẽ. Một số nhà nghiên cứu cho rằng tín ngưỡng phồn thực có ảnh hưởng qua lại với văn hóa người Chăm xưa, với biểu tượng nổi tiếng là Linga – Yoni. Thực ra, quan niệm này đã được dân gian hóa từ trước; dưới hình thức các tục hèm trong lễ hội truyền thống của người tiền Việt – Mường, với rất nhiều vật thờ cúng, tượng thần, phù điêu trên các chi tiết đắp nổi bằng vôi vữa, đục đẽo bằng gỗ trên cửa võng, xà ngang, đầu đấu đình làng, miếu, chùa ở Việt Nam. Điển hình hơn cả là tục bắt chạch trong chum hay hành vi đâm biểu tượng dương vật vào hình âm vật bằng gỗ trong lễ hội xuân ở Phú Thọ, Bắc Giang, Hà Tây, Bắc Ninh...

- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên xuất phát từ quan niệm cho rằng những thế hệ đi trước khi mất đi không hoàn toàn từ bỏ cõi dương gian mà vẫn tồn tại dưới một hình thức siêu hình, trong những dịp đặc biệt như ngày giỗ, lễ tết, sóc vọng… thường quay trở lại gia đình để trông nom, phù hộ, độ trì thế hệ sau. Quan niệm này tạo ra một chiều sâu văn hóa và chiều rộng về ý thức gia đình. Gia đình không chỉ bao gồm những người còn sống, mà có cả những người đã khuất. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không chỉ giới hạn

20


trong một gia đình hạt nhân mà còn được mở rộng ra chi họ, dòng tộc. Đến thời hiện đại, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được nâng tầng cấp quốc gia khi tất cả người Việt đều thừa nhận vua Hùng là ông tổ khai sinh đất nước. Ngày 10 tháng 3 âm lịch được coi là quốc giỗ, người dân trong cả nước đều được nghỉ và tổ chức cúng giỗ, viếng đền Hùng (Phú Thọ), thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có từ lâu đời, là lá chắn văn hóa vững vàng xuyên suốt quá trình lịch sử. Người Pháp khi xâm lược Việt Nam nhìn nhận hiện tượng tín ngưỡng này như là một tôn giáo thế tục và coi đó là một rào cản vô hình ngăn chặn quá trình “khai hóa” văn minh ở Đông Dương, trong đó có quá trình truyền bá Thiên chúa giáo.

- Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng: Theo một số nhà nghiên cứu văn hóa, thờ thành hoàng ở nước ta có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tuy nhiên, tục thờ thành hoàng của người Trung Quốc chủ yếu hướng vào thờ cúng vị thần trông coi các thành – công trình phòng vệ tuyến ngoài của đô thị cổ Trung Quốc; trong khi đó tục thờ thành hoàng của người Việt chủ yếu hướng vào thờ cúng những vị thần bảo trợ cho làng xã. Những vị thần này có thể là người khai khẩn đất hoang, dựng làng, lập ấp… thực chất là người có công đầu tiên trong quá trình hình thành và phát triển của làng. Cụ thể như thần tổ nghề - mang nghề đến cho nhân dân; những vị tướng tài mang lại độc lập tự do cho cộng đồng. Các vị quan văn, quan võ đã thi tài, đỗ đạt có gốc gác hoặc có đóng góp cho làng. Cá biệt ở một số nơi còn thờ những vị thần thác vào giờ thiêng hoặc có nghề nghiệp không mấy được coi trọng trong xã hội như thần làm nghề hót phân, ăn trộm, hoạn lợn, đôi khi là người lạ chết trong đất của làng. Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng phổ biến ở Việt Nam, gắn bó mật thiết với lễ hội và những công trình kiến trúc nổi tiếng là đình, đền, miếu, phủ. Các công trình này là nơi lưu giữ nhiều tầng văn hóa khác nhau theo tiến trình lịch sử. Đó là những hoành phi, câu đối, những bản thần tích, sắc phong qua nhiều triều đại, những văn tự Hán Nôm nói về lịch sử hình thành và phát triển của làng, những ghi chép về trùng tu, tôn tạo qua thời

21


gian. Đình làng được coi là địa điểm tổ chức chính thức các lễ hội truyền thống, nét văn hóa đã trở thành đặc điểm nổi trội trong bản sắc văn hóa dân tộc. Lễ hội truyền thống gắn liền với đình làng và các công trình tín ngưỡng – tôn giáo khác, tạo được không gian linh thiêng, không khí đầu năm mùa xuân rộn rã nên rất hấp dẫn mọi tầng lớp lứa tuổi, thu hút khách du lịch bởi mức độ đa dạng và những nét biểu trưng của nó trong nền văn hóa Việt.

- Các hình thức tín ngưỡng khác: Ngoài những hình thức tín ngưỡng phổ biến trên, trong đời sống văn hóa truyền thống còn tồn tại nhiều hình thức tín ngưỡng khác tùy theo văn hóa vùng miền, đặc thù địa lý. Trong số đó có thể đề cập đến tín ngưỡng thờ Sơn Tinh – Thủy Tinh, một trong tứ bất tử trong văn hóa dân gian. Tín ngưỡng thờ Sơn Tinh – Thủy Tinh gắn liền với truyền thuyết trong thời kỳ đầu dựng nước, biểu lộ tinh thần đấu tranh với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Tín ngưỡng Sơn Tinh – Thủy Tinh Sơn rất phổ biến ở khu vực đồng bằng sông Hồng, do nơi đây phải thường xuyên chống chọi với lũ lụt, bảo vệ mùa màng, con người và vật nuôi.

Tín ngưỡng thờ thủy thần phổ biến ở những ngôi làng ven biển hoặc gần sông lớn. Tục thờ thủy thần biểu hiện lòng tôn kính đối với vị thần bảo trợ, mang lại bình yên cho những chuyến đi dài ngày trên biển hoặc trên sông nước, hoặc ít nhất là biểu lộ lòng tôn kính để vị thần này không gây hại cho nghề nghiệp của những người làm nghề đánh bắt thủy sản. Tín ngưỡng thờ thủy thần gắn liền với việc thờ các vật thủy linh như rồng, rắn. Khu vực đồng bằng sông Hồng xưa kia vẫn còn là địa vực gần biển, do đó di sản thờ cúng thủy thần vẫn còn nhiều dấu vết trong các làng Việt cổ. Thờ thủy thần cũng được biểu hiện qua tục thờ cá ông của cư dân Việt sinh sống ven biển.

Một số tín ngưỡng khác hiện nay vẫn còn tồn tại phổ biến ở các làng quê Việt Nam như tín ngưỡng thờ cây hương, tín ngưỡng thờ ông Đống, bà Đống, tín ngưỡng thờ đức thánh Trần, tín ngưỡng cầu mưa và tín ngưỡng thờ thần thổ địa…

22

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 08/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí