tính đa ngành cũng như yêu cầu bảo tồn các nguồn tài nguyên tự nhiên. Du lịch gắn với tín ngưỡng ít gặp phải trở ngại do yếu tố thời tiết, quy hoạch không gian do đó có thể được khai thác trong mọi thời điểm trong năm.
- Tín ngưỡng với vai trò là nguồn tài nguyên du lịch dễ khai thác và mang lại hiệu quả kinh tế cao:
Đứng trên phương diện kinh tế, du lịch gắn với tín ngưỡng không đòi hỏi những tổ chức, đơn vị doanh nghiệp và ngành du lịch phải đầu tư nhiều vào điểm (sites) do giá trị sẵn có. Khi xem xét điểm du lịch tín ngưỡng trong mối quan hệ với các loại hình du lịch khai thác yếu tố tự nhiên như điểm du lịch biển; Điều dễ thấy là nguồn vốn đầu tư ban đầu của các điểm du lịch như bãi biển thường lớn: xây dựng khách sạn, cơ sở hạ tầng, vui chơi giải trí hiện đại và hàng loạt những dịch vụ bổ xung khác. Ngược lại, điểm du lịch tín ngưỡng thường chỉ tập trung vào đường giao thông và những cơ sở vật chất tối thiểu phục vụ khách du lịch do đặc thù của chúng. Như vậy, các điểm tín ngưỡng đóng vai trò là nguồn tài nguyên dễ khai thác và có chi phí ban đầu tương đối thấp, thuận tiện cho việc thu hồi vốn.
Thị trường du lịch đóng vai trò quan trọng trong phát triển ngành. Thị trường thể hiện qua lượng cầu và khả năng cung ứng của các chủ thể kinh doanh du lịch. Lượng cầu được quy định bởi khả năng thanh toán và động cơ du lịch của các nhóm du khách. Chúng thúc đẩy động cơ du lịch, cho việc tiến hành các chuyến đi với mục đích du lịch. Khách du lịch hiện nay thường bị hấp dẫn bởi những yếu tố văn hóa do tính mới lạ tương đối của chúng và mục đích tiến hành sử dụng sản phẩm du lịch để mở mang nhận thức bản thân và hiểu biết về những con người, những nền văn hóa nằm ngoài quốc gia hoặc chí ít địa điểm nơi họ sinh sống. Trong nội dung này, tín ngưỡng có vai trò là nhân tố quyết định đến lượng cầu du lịch dành cho sản phẩm du lịch văn hóa.
Văn hóa tín ngưỡng thường có mối liên hệ chặt chẽ với các tôn giáo lớn khác ở Việt Nam qua quá trình tiếp biến văn hóa. Việc hòa trộn tín ngưỡng vào
31
các địa điểm thờ tự tôn giáo và ngược lại rất phổ biến ở Việt Nam. Hiện tượng này này làm cho tính chặt chẽ của tôn giáo khi du nhập vào Việt Nam bị giảm nhẹ, tính chính thống được thay thế bằng tính dân gian, các luật lệ bị gia giảm thành quy ước từ đó vai trò của người đứng đầu tôn giáo cũng bị dung hòa với vai trò của những người đứng trong cộng đồng tôn giáo – tín ngưỡng. Theo điều tra của Tổng cục Thống kê tiến hành năm 2009, người tham gia và các hoạt động và tổ chức tín ngưỡng – tôn giáo ở Việt Nam có tỷ lệ theo dân số cụ thể như sau:
Bảng 1.1: Tỷ lệ tôn giáo – tín ngưỡng theo dân số:
Tôn giáo | Phần trăm | |
1 | Không tôn giáo | 81.69% |
2 | Phật giáo (Đại thừa) | 7.93% |
3 | Công giáo | 6.62% |
4 | Phật giáo Hòa hảo | 1.67% |
5 | Cao Đài | 1.01% |
6 | Tin Lành | 0.86% |
7 | Tôn giáo khác | 0.22% |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu các giá trị văn hóa tín ngưỡng ở phía tây Hà Nội Hà Tây cũ nhằm phát triển du lịch - 2
- Cơ Sở Hình Thành Tín Ngưỡng Và Văn Hóa Tín Ngưỡng
- Điều Kiện Hình Thành, Tồn Tại Và Phát Triển Của Văn Hóa Tín Ngưỡng.
- Kinh Nghiệm Phát Triển Du Lịch Văn Hóa Tín Ngưỡng Của Một Số Địa Phương Tại Việt Nam.
- Nghiên cứu các giá trị văn hóa tín ngưỡng ở phía tây Hà Nội Hà Tây cũ nhằm phát triển du lịch - 7
- Đường Lối, Chủ Trương. Chính Sách Của Đảng Và Nhà Nước Về Tôn Giáo, Tín Ngưỡng.
Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.
(Nguồn:Tổng cục Thống kê 2009)
Theo bảng biểu, hiện nay ở Việt Nam có đến 81.69% dân số không theo một tôn giáo lớn nào trong so sánh với tổng số 18.31% người có theo một tôn giáo chính thống.Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu xã hội học và văn hóa học, 81.69% người không theo tôn giáo chính thống không có nghĩa là họ là người vô thần. Chiếm đa số những người không theo tôn giáo lớn thường là người có những thực hành tín ngưỡng trong cuộc sống hàng ngày, hoặc tin tương vào một số tín điều tôn giáo mà không nhất thiêt phải là thành viên của tôn giáo đó. Ví dụ như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên gần như có đến 100% người Việt tiếp tục duy trì
như là một nét văn hóa truyền thống tiêu biểu.
32
Hiện nay tổng dân số ở khu vực nông thôn vẫn còn chiếm 60,96 triệu người, chiếm 69,4%, dân số khu vực thành thị là 26,88 triệu người, chiếm 30,6% tổng dân số cả nước. Như vậy, 69.4% dân số vẫn sinh sống ở khu vực nông thôn, nơi văn hóa truyền thống Việt Nam vẫn còn mang đậm dấu ấn mà chưa bị quá trình đô thị hóa, hội nhập làm phai nhạt. Tại trung tâm đô thị Hà Nội, các biểu hiện tín ngưỡng dân gian vẫn còn rất đậm nét biểu hiện qua sự phục hồi nhanh chóng các lễ hội truyền thống gắn với các điểm di tích, hình thức biểu diễn dân gian như hát văn, ca trù, múa rối nước có nhiều nghệ sỹ tâm huyết theo đuổi và hình thành các khu vực biểu diễn ngay trong nội đô.
Cùng với sự phổ biến và phục hồi các hình thức biểu hiện gắn tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam; Du lịch tín ngưỡng được xem như là cánh cửa để bước vào tìm hiểu nền văn hóa dân tộc Việt Nam đối với du khách nước ngoài. Điều này được khẳng định qua sự đa dạng hóa các sản phẩm du lịch khai thác lễ hội truyền thống, các hình thức biểu diễn dân gian, phong tục tập quán trong đông đảo tầng lớp nhân dân và thực hành tín ngưỡng ở mọi người dân có quốc tịch Việt. Du lịch tín ngưỡng là nền tảng để du khách nước ngoài tiến hành hoạt động du lịch có mục đích nghiên cứu, tìm hiểu, khảo cứu các nền văn hóa trong nước gắn với con người Việt Nam.
1.2.3 Điều kiện phát triển loại hình du lịch văn hóa tín ngưỡng.
Những điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch khai thác các giá trị tín ngưỡng
Một trong những điều kiện quan trọng nhất để phát triển du lịch nói chung, du lịch tín ngưỡng nói riêng là môi trường bên ngoài của hoạt động du lịch. Chúng thường là những nhân tố mà khách du lịch, nhà kinh doanh du lịch và ngành du lịch địa phương chịu sự tác động, không nằm trong khả năng kiểm soát của họ. Môi trường bên ngoài nếu như phù hợp, có thể thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển; ngược lại, chúng kiềm chế và gián tiếp tạo ra những sản phẩm du lịch chưa hoàn thiện, kém hiệu quả và phát triển không bền vững. Phần này
33
chủ yếu đề cập đến môi trường vĩ mô, có tác động từ bên ngoài đến khả năng phát triển du lịch tín ngưỡng tại địa phận Hà Tây (cũ).
- Các chính sách phát triển của Nhà Nước, ngành: Để phát triển du lịch nói chung, du lịch tín ngưỡng nói riêng chính sách dành cho du lịch là nhân tố mang tính quyết định đến việc hình thành, định hình và phát triển sản phẩm du lịch. Chính sách dành cho du lịch tác động rất mạnh đến việc quy hoạch không gian lãnh thổ, các cụm du lịch với sản phẩm trọng điểm; tổng số lượng vốn dành cho giao thông vận tải, lưu trú; công tác xúc tiến phát triển du lịch và quảng bá, ngân sách dành cho phát triển du lịch. Nếu như chính sách dành cho ngành du lịch phù hợp với nguồn tài nguyên, chiến lược phát triển phù hợp với thị trường quốc tế và tình hình trong nước; các sản phẩm du lịch chắc chắn sẽ được kích thích phát triển và đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội – chính trị đã đề ra. Tuy nhiên, nếu như chính sách không theo sát thực trạng nguồn tài nguyên, không thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch, đối tượng hoạt động trong ngành và người dân đia phương; chúng có thể kìm hãm hoạt động du lịch phát triển đúng với tiềm năng sẵn có của điểm đến. Chính sách phát triển du lịch của Hà Nội hiện nay được thể hiện qua các bản quy hoạch du lịch, các văn bản pháp quy nằm trong phạm vi tác động vào hoạt động du lịch; trong đó có không gian du lịch thuộc địa bàn Hà Tây cũ. Nhìn chung chính sách dành cho du lịch ở địa bàn thường tập trung vào tổng số ngân sách dành cho cơ sở hạ tầng, cơ sở lưu trú và các điểm du lịch có quy mô lớn. Ngoài ra chúng cũng tập trung vào việc xây dựng các sản phẩm chủ đạo theo không gian lãnh thổ như các cụm du lịch và phân chia theo quận, huyện.
Hà Nội không chỉ là trung tâm kinh tế - chính trị của cả nước mà cũng là địa phương có nguồn tài nguyên du lịch phong phú; do đó hoạt động du lịch cũng được xác định cần phải phát triển với tốc độ cao, với mục tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong giai đoạn 2015 – 2030. Đối với các điểm tín ngưỡng, chính sách phát triển du lịch không chỉ tập trung vào quy hoạch mà
34
còn chú trọng đến công tác bảo tồn di sản văn hóa và xúc tiến do đặc thù tài nguyên du lịch của các điểm này.
- Cơ sở hạ tầng có trình độ phát triển ở mức độ tối thiểu để phục vụ cho hoạt động du lịch: Cơ sở hạ tầng là yếu tố cơ bản kích thích hoạt động du lịch phát triển, đặc biệt là du lịch đại chúng. Các điểm du lịch có vị trí địa lý xa xôi, tài nguyên du lịch đặc sắc thường hấp dẫn đối tượng khách du lịch ưa mạo hiểm. Tuy vậy, nhóm khách này có số lượng nhỏ, mang lại lợi ích kinh tế không đáng kể và thường không đến tham quan các điểm du lịch tín ngưỡng. Để kích thích đầu tư và thu hút mối quan tâm của các công ty lữ hành, khách du lịch; các điểm tín ngưỡng cần hoàn thệ hệ thống giao thông vận tải nhằm thuận tiến hóa quá trình tiến hành chuyến du lịch, khuyến khích đầu tư cơ sở lưu trú, các dịch vụ bổ sung tại điểm.
- Khả năng tiếp cận: Vị trí địa lý đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động lữ hành. Nếu như một điểm tín ngưỡng có nguồn tài nguyên đặc biệt hấp dẫn nhưng nằm ở vị trí địa lý xa xôi, giao thông khó khăn, địa hình hiểm trở không thuận tiện cho hoạt động di chuyển đến các điểm du lịch lân cận; điểm du lịch đó khó có thể phát triển thành điểm du lịch đúng nghĩa bởi yếu tố tâm lý, ngân sách tác động lên quá trình ra quyết định cuối cùng của du khách. Khả năng tiếp cận cũng thể hiện qua thái độ của người dân và chính quyền địa phương dành cho khách du lịch. Người dân có thái độ thân thiện với khách du lịch, hợp tác với các đối tác lữ hành thường được đánh giá rất cao, ngược lại người dân có thái ghét bỏ, không mong muốn tiếp xúc với khách du lịch thường tác động mạnh đến nhu cầu an toàn, sự thoải mái của khách du lịch.
- Có mức độ hấp dẫn du lịch tương đối cao trong tổng thể hệ thống tài nguyên du lịch gắn với tín ngưỡng: thể hiện qua sự xuất hiện của những điểm du lịch tín ngưỡng trong các tour du lịch của các công ty lữ hành, mật độ xuất hiện trên các báo, tạp chí chuyên đề giới thiệu điểm du lịch và biểu hiện qua số lượng khách du lịch có mong muốn quay lại điểm. Mức độ hấp dẫn du lịch cũng được
35
thể hiện qua các giá trị văn hóa, tính truyền thống, giá trị cảnh quan, kiến trúc, mỹ thuật và các di sản được bảo tồn tại điểm di tích – tín ngưỡng. Yếu tố đặc sắc, nhấn mạnh tính khác biệt so với những điểm du lịch tương tự khác cũng góp phần quy định mức độ hấp dẫn du lịch. Mức độ hấp dẫn du lịch tác động mạnh mẽ đến động cơ và quyết định cuối dẫn đến việc mua sản phẩm đối với khách du lịch.
Tại các điểm du lịch tín ngưỡng, tính thiêng là một yếu tố hết sức quan trọng đối với khách du lịch nội địa, châu Á. Các điểm di tích – tôn giáo tín ngưỡng cổ kính và nổi tiếng bởi tính thiêng (ở đây tính thiêng được hiểu theo khía cạnh đánh giá của người đi lễ chùa, cầu cúng tại các điểm tín ngưỡng về phản hồi của các bậc thần phật vô hình theo những thỉnh cầu của họ) thường thu hút rất nhiều khách du lịch đến từ các địa phương khác nhau. Cho dù đây là vấn đề nhạy cảm đối với những nhà quản lý văn hóa - du lịch và những người ban hành chính sách do đường biên giới mỏng manh giữa tôn giáo- tín ngưỡng và mê tín – dị đoan nhưng chúng góp phần rất lớn tạo đà phát triển cho hoạt động du lịch tại điểm. Tính thiêng là một bộ phận rất đặc thù tạo ra năng lực hấp dẫn du lịch của điểm, trong một số trường hợp là nhân tố chính thúc đẩy loại hình du lịch tâm linh.
- Nhu cầu tiến hành chuyến du lịch đến với các điểm tín ngưỡng: Nhu cầu tiến hành du lịch ở nhóm khách du lịch nội địa thường tương đối cao, tập trung vào thời điểm mùa xuân, sau tết Nguyên Đán. Khách du lịch nội địa có động cơ tâm linh cao như cầu tài lộc, danh vọng, tình duyên hoặc chỉ đơn thuần tham gia lễ hội truyền thống. Khách du lịch nước ngoài, ngược lại, chú trọng vào yếu tố kiến trúc, tuổi đời di tích (giá trị lịch sử), nghệ thuật thuật dân gian và vị trí của di tích - tín ngưỡng trong tâm thức của người Việt mà đối với họ là người bản địa. Nhu cầu có khả năng chi trả của khách du lịch định hình lên lượng cầu. Lượng cầu cao thúc đẩy hoạt động du lịch dù có quy hoạch phát triển hay không. Mặt khác, lượng cầu thấp đưa ra yêu cầu tự thay đổi của chính quyền địa
36
phương, các tổ chức lữ hành nhằm đánh giá lại mức độ hấp dẫn của điểm và điều chỉnh kích cầu thu hút khách du lịch.
1.2.4 Các hình thức Du lịch văn hóa tín ngưỡng.
- Du lịch khai thác lễ hội truyền thống: Lễ hội truyền thống được xem là một trong những nguồn tài nguyên du lịch giầu tiềm năng do số lượng rất lớn và bề dầy lịch sử văn hóa được tích tụ trong đó. Lễ hội truyền thống được ví là bảo tàng sống về đời sống văn hóa từ xa xưa cho đến hiện tại của người Việt Nam. Chính vì thế, chúng thu hút được mối quan tâm của khách du lịch nước ngoài, những du khách từ địa phương khác trong nước kéo theo việc hình thành các tuyến điểm, sản phẩm du lịch lễ hội.
Hiện nay Việt Nam có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%).Các địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Dương, Hà Tây và Phú Thọ. Với số lượng lớn, phân bố rộng khắp trên mọi miền đất nước, lễ hội truyền thống trở thành nguồn tài nguyên du lịch giầu tiềm năng trong quá trình phát triển du lịch văn hóa ở Việt Nam.
Lễ hội tín ngưỡng ở Việt Nam thường được tổ chức tại các điểm di tích lịch sử - văn hóa, các công trình tín ngưỡng mà chúng đóng vai trò trung tâm của đời sống văn hóa cộng đồng cư dân nông nghiệp (biểu hiện qua số liệu thống kê). Tại các điểm đô thị lớn, lễ hội tín ngưỡng truyền thống vẫn được tổ chức với cấu trúc, ý nghĩa mang đậm tính nông nghiệp.
Về cơ bản, lễ hội tín ngưỡng được phân chia tương đối thành hai bộ phận: phần lễ và phần hội. Có sự phân chia tương đối này nhằm xác định yếu tố thiêng của chúng. Ví dụ như phần lễ, nhấn mạnh đến tính linh thiêng. Đó là yếu tố chiếm vị trí quan trọng trong tâm thức những người tiến hành và tham gia lễ hội; ví như sự biểu lộ lòng biết ơn với thành hoàng làng đã mang nghề, lập lên làng. Phần hội chủ yếu được tổ chức với mục đích thế tục, ví dụ như giải trí sau những
ngày lao động vất vả hoặc là nơi con người giải tỏa những kìm nén bản năng do luật lệ hà khắc của chế độ phong kiến nho giáo (nhiều trò chơi dân gian mang đậm yếu tố tín ngưỡng phồn thực). Xét về tổng thể, phần lễ và phần hội luôn luôn có sự đan xen với nhau thành một thể thống nhất. Tính thiêng luôn gắn bó chặt chẽ với những hành vi thế tục hóa mang đậm yếu tố dân gian.
Sản phầm du lịch lễ hội tín ngưỡng có đặc điểm là mang tính thời vụ cao do chỉ được tổ chức vào mùa xuân. Khách du lịch muốn tham quan, nhập thân vào một lễ hội đặc biệt chỉ có thể tiến hành hoạt động du lịch vào thời điểm này. Vì lý do đó, du lịch lễ hội mặc dù rất giầu tiềm năng nhưng vẫn chưa thể trở thành một sản phẩm du lịch có lượng du khách đông đảo và mang lại lợi nhuận cao.
- Du lịch tham quan thắng cảnh: Các tín ngưỡng dân gian luôn gắn liền với một hoặc một số điểm di tích. Các điểm này thường là đình, đền, miếu, nhà thờ họ... Di tích tín ngưỡng luôn có những giá trị hấp dẫn du lịch; Đó là giá trị cảnh quan do được đặt trên một khoảng đất rộng trong mối tương quan với tổng thể không gian địa lý của làng, gắn với những quan niệm văn hóa (thuật phong thủy). Giá trị văn hóa thể hiện qua kiểu mẫu công trình kiến trúc, những di sản văn hóa như sắc phong, các vị thần được thờ; những tác phẩm nghệ thuật dân gian như tượng thờ, phù điêu, điêu khắc trên các đình làng, những truyền thuyết gắn liền với di tích. Tất cả những thứ đó thể hiện một cách tiêu biểu nhân sinh quan, thế giới quan, tư tưởng thẩm mỹ, triết học của người Việt.
Các điểm di tích gắn với tín ngưỡng dân gian thường đóng vai trò là điểm tham quan trong ngày của tour du lịch do quy mô không đủ lớn để có thể xây dựng các khách sạn cho khách du lịch. Điểm tham quan khác trong tuyến cũng có thể là các điểm di tích tín ngưỡng (sản phẩm du lịch chuyên đề) hoặc các điểm du lịch thuộc nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên nhằm gia tăng giá trị hấp dẫn sản phẩm du lịch.