một kẻ nhập cuộc hết mình, nhưng lúc này là một sức cảm thông thần diệu và một trực giác cực khởi. Tự bỗng như run rẩy cả đến mỗi đầu ngón tay" [21,9]. Có thể nói căn gác nhỏ như là nơi thanh lọc tâm hồn của thầy giáo nghèo. Ở đây Tự xa lánh cái phồn tạp trần ai, tách ra khỏi đời sống đang bị tước dần những giá trị đích thực, không giao tiếp với những câu chuyện tầm phào, thói sùng bái đồng tiền và sự tráo trở thô bạo. Và cũng ở chính nơi đây từ sáng đến tối, Tự có thể dành hết tâm huyết cho việc nghiên cứu, soạn bài, chấm bài và lặn ngụp thoả chí trong cái đại dương mênh mông của nghề sư phạm và nghệ thuật ngôn từ. Thoả chí lặn ngụp trong đại dương mênh mông đó, Tự còn mở rộng lòng mình để đón nhận những điều tuyệt vời mà nhiên nhiên ban tặng cho cuộc sống con người "Đã có lúc Tự chợt buông trang sách, nằm nghe gió mùa về đập cành cành quả me trên cành khô nơi sân thượng, ngẩn ngơ một nuối tiếc ho ặc phiêu diêu vào đám sương hồi ức hoặc lãng đãng buồn lo về thực tại. Nằm một chỗ mà tâm hồn toả bốn phương. Cò n thú thẩm mỹ nào bằng! còn hạnh phúc nào hơn" [21,14]. Cho dù, đó chỉ là một cơn gió mùa về nhưng với tâm hồn nhạy cảm yêu cái đẹp của Tự đã vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên vô cùng nên thơ. Thiên nhiên ấy đã đem đến cảm giác nồng nàn say đắm cho con người. Điều đó cho thấy, Ma Văn Kháng khô ng chỉ có cái nhìn ở nhiều tầng, nhiều vỉa mà còn có khả năng quan sát tinh tế nhạy cảm trước những biến động của thiên nhiên, của cuộc sống xung quanh chúng ta. Vì vậy khi miêu tả dù là cuộc sống của Tự hay sự cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên của nhân vật này thì tất cả đều được hiện lên thật lung linh, sôi động và nổi rõ cái thần của đối tượng.
Trang văn của Ma Văn Kháng luôn đem đến cho người đọc những điều bất ngờ. Trong bất cứ hoàn cảnh nào ở Tự vẫn toả ra một tâm hồn nhạy cảm, biết cảm nhận, say mê cái đẹp như một điều hiển nhiên. Niềm say mê đó được cất cánh ở mọi lúc, mọi nơi kể cả khi anh thấy học trò của mình phấn khởi làm bài trong kỳ thi tốt nghiệp, rồi ngay cả khi Tự đứng trên bục giảng. Lúc đó ở Tự dường như có sự chuyển hoá bản thân, để bỏ lại tất cả những gì thô ráp của cuộc đời. "Trong những giây phút như thế Tự giao tiếp với học trò ngắm mình qua mấy chục tấm gương
phản chiếu. Khi ấy Tự thấy đẹp, hùng mạnh và cao quý biết bao, Tự thấy nghề giáo đẹp xiết bao. Tâm hồ n Tự toả sáng đẹp một cách lạ lùng" [21,42]
Ma Văn Kháng đã đưa người đọc đến với một thế giới hiện thực đầy cảm hứng lãng mạn mộ ng mơ bằng giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng. Hiện thực đời thường vốn đang ngổn ngang nhiều vấn đề bất cập của cuộc sống thời hậu chiến, không áp đặt cái nhìn một chiều, Ma Văn Kháng luôn tôn trọng dò ng chảy tự nhiên của cuộc sống, trong đó vẫn tiềm tàng ẩn chứa những vẻ đẹp vĩnh hằng.
Giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng cho dù được tạo nên bởi chính bản thân của đối tượng thẩm mỹ, nhưng trước hết nó phải được xuất phát từ một tấm lòng yêu cái đẹp của nhà văn. Tiếp nhận hiện thực và con người ở nhiều tầng, nhiều vỉa khác nhau, ngòi bút của Ma Văn Kháng khô ng chỉ phê phán những mặt tiêu cực của đời sống mà ông còn phát hiện ngợi ca vẻ đẹp của những giá trị đạo đức truyền thống, cội nguồn thiêng liêng của những giá trị văn hoá, nền tảng c ủa mọi nền văn hoá. Điều đó được Ma Văn Kháng gửi gắm vào hình tượng nhân vật chính diện trong các sáng tác của mình.
Nhân vật Luận trong tiểu thuyếtMùa lá rụng trong vườn luôn toả sáng vẻ đẹp của chính mình với lòng nhân hậu, đằm thắm bao dung. Luận sống thiết tha với nó và coi đó như một niềm vui sống của mình. Đối với anh, cái cho đi không bao giờ mất, ngược lại anh nhân mình lên trong sự giầu có của tình đời, tình người. Mang cái nhìn nhân hậu và thấu tình hợp lý, anh đã thuyết phục mọi người hướng đến cái nhìn độ lượng. Ở anh, tất cả mọi người không ai là xấu ngay cả Lý. Anh không những cảm nhận nỗi vất vả, vẻ đẹp của nhiều người quanh mình, mà rất thấu hiểu vẻ đẹp thánh thiện của người vợ mà anh hết lòng yêu thương. Anh thấy ở vợ mình khả năng nhạy cảm với nỗi đau của kẻ khác và sẵn sàng đền bù cho người khác. Sự chịu đựng của vợ khiến anh có lúc phải kinh ngạc. Khi cưu mang vợ con Cừ không biết bao nhiêu lần chị phải nhịn nhường vì cuộc sống quá khốn khổ. Luận đã cảm nhận được sự khó nhọc trên gương mặt c ủa chị và ở bộ quần áo vá cuả chị. Trước vẻ đẹp thánh thiện đó của Phượng, Luận nhìn vợ lòng tràn ngập yêu thương "Cùng
với tiếng nước chảy xè xè, Luận nghe tiếng nói của Phượng trong mùi thơm dậy nồng nàn của hoa hoàng lan trước đêm hè" [22,244].
Có thể bạn quan tâm!
- Cái Nhìn Con Người Tinh Tường Nghiêng Về Những Giá Trị Văn Hoá Truyền Thống
- Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới - 6
- Các Sắc Thái Giọng Điệu Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Thời Kỳ Đổi Mới Của Ma Văn Kháng
- Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới - 9
- Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới - 10
- Ngôn Ngữ Dung Dị Đời Thường Tươi Rói Sự Sống
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Trong những ngày đất nước còn muôn vàn khó khăn và ngổn ngang nhiều vấn đề bất cập, bất ổ n đó, tình yêu thương của Phượng khiến cho Luận cảm giác như được bồi bổ thêm sức mạnh từ bên trong. Anh tâm sự "P hượng à, cuộc sống chung của chúng mình đã được mười năm và trong mười năm đó ba nghìn sáu trăm ngày vất vả của em. Anh tự hỏi: cái gì tạo nên sức mạnh của em trong những ngày đó? Có phải đó là lòng nhân hậu, sự kiên nhẫn chịu đựng, đức hy sinh cao quý và sức chống chọi cứng cỏi, bền bỉ của em không? Từ em đang to ả ra vẻ đẹp mạnh mẽ, bình dị và tự nhiên. Anh c ảm thấy tin yêu cuộc sống hơn, vì có em bên cạnh, Phượng à" [22,327].
Xúc động trước cái đẹp đầy tình người của con người hôm nay, Luận đã kể cho Phượng câu chuyện của một lão đồng chí, phải tạm biệt người vợ trẻ với đứa con thơ ra nước ngoài ho ạt động. Khi cách mạng thành công đồng chí ấy trở về thăm gia đình thì người vợ đã có thêm ba đứa con nữa với người chồng khác vừa chết vì bệnh. Ông có thể lấy người vợ khác mà không ai trách cứ. Vậy mà ông lại trở về với vợ, chăm sóc ba đứa con của người vợ y như đối với đứa con duy nhất của mình cho đến khi trưởng thành. Chứng kiến câu chuyện xúc động ấy Luận đã trào nước mắt.
Trước những cảnh đời éo le, những biến động của cuộc sống, Luận đã có một cái nhìn không chỉ bó hẹp trong một gia đình, một cơ quan…mà vượt lên tầm bao quát lớn để hoà vào mạch ngầm truyền thống của dân tộc. Trong cuộc sống đầy biến động, những thói xấu xa, bụi bẩn của thời kỳ đổi mới đang xâm nhập vào cuộc sống, vào mỗi con người thì truyền thống đạo đức của dân tộc Việt là dòng nước mát trong lành cần được lưu giữ, lưu truyền. Qua trang sách của mình, Ma Văn Kháng đã ý thức rất rõ điều đó.
Hãy nghe Luận tâm sự với vợ qua giọng điệu trữ tình đầy cảm xúc: "Em ạ! dân mình khổ quá. Những chuyện tình xưa như Tống Trân - Cúc Hoa, Phạm Công - Cúc Hoa. Truyện nào cũng đẫm cơ cực! cơ cực quá! có lẽ không có dân tộc nào khổ như
dân tộc mình. Trong hoàn cảnh ấy con người muốn sống được phải có tình yêu thương lớn lao, cao thượng lắm em ạ" [22,174].
Khác với các nhà văn cùng thời khi viết về cái đẹp, Ma Văn Kháng đã ngợi ca cái đẹp trong cuộc sống bình dị, hồn nhiên, trong trẻo. Theo tác giả cái đẹp phải được xuất phát từ trong niềm hạnh phúc được làm người với ý nghĩa đích thực của nó.
Trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời Ma Văn Kháng đã đứng ở vị trí của cậu bé Duy - 15 tuổi, ngây thơ vụng dại mà trí tuệ thông minh, sắc sảo với một bản năng tự nhiên hướng về cái thiện để tái hiện lại quãng đời tuổi thơ đầy nước mắt của mình. Ở cái tuổi mà đó Duy đã cảm nhận được sự hy sinh vô bờ của bà. Hơn ai hết, Duy biết ơn bà và thương em biết bao. Cảm nhận được sâu sắc công lao to lớn của bà với mình, Duy đã bộc lộ suy nghĩ chân thành mà cảm động. Suy nghĩ ấy được tác giả diễn tả bằng giọng điệu trữ tình sâu lắng: "Nhưng bà ơi, vắng bà rồi, mà cháu vẫn có bà. Ơn bà mãi mãi cháu để hai vai. Bà nhịn cho chúng cháu ăn, bà lạnh cho chúng cháu ấm. Bà bế bồng, dìu dắt chúng cháu đi qua những năm tháng c ách trở lừa lọc, phản trắc, bất công. Bà đưa chúng cháu qua nơi hỗn độn đến an bằng" [23,275]. Những đau khổ buồn tủi, đơn côi của anh em Duy thời ấu thơ, nhờ có người bà thân yêu của mình đã được gột rửa để bước qua vùng tủi hổ, đến với hy vọ ng và tình yêu. Duy c ảm nhận được tất cả những điều đó "Ở bà là sự nhẫn nhịn, là lòng hỉ xả, là tuyết sạch giá trong, là tình thương, là lẽ phải, là sự cứng cỏi kiên trinh. Bà là tiên giáng trần đã che chở cưu mang chúng cháu bằng tình thương yêu và phép huyền nhiệm, thần kỳ!" [23,275]. Giọng điệu thiết tha sâu lắng từ con tim của nhà văn đã cho người đọc cảm nhận sâu sắc lòng hiếu thảo của cậu bé Duy trong những ngày tháng côi cút.
Bằng giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng Ma Văn Kháng đã đem đến cho người đọc nhiều sự cảm nhận đặc biệt, từ đó Ma Văn Kháng đưa con người vào quỹ đạo những tình cảm thanh lọc, tẩy rửa để tạo niềm tin cho con người vào một tương lai tốt đẹp hơn.
Quá trình dân chủ hoá trong văn học đã tạo ra một không khí mới. Ý thức dân chủ đã cho phép các nhà văn thể hiện cái tôi, cái bản sắc riêng độc đáo của mình.
Khác với cảm hứng sử thi, giọng điệu trữ tình mang âm hưởng ngợi ca trở thành phương tiện khẳng định vẻ đẹp lý tưởng của con người Việt Nam anh hùng một thời lửa đạn, giọng điệu trữ tình của Ma Văn Kháng dưới cảm hứng thế sự đời tư đưa người đọc đến với vẻ đẹp tự thân của con người và cuộc sống hôm nay.
Điều đáng nói là, ở Ma Văn Kháng, sắc thái giọng điệu ấy được hiện diện từ chính vẻ đẹp tự thân của nhân vật. Do vậy giọng điệu này thường được nhà văn ưu ái khi viết về những nhân vật mang vẻ đẹp chân chính.
Ông Bằng (Mùa lá rụng trong vườn) một trí thức cũ sống hết lòng với đạo đức truyền thống dân tộc, luôn lấy tấm gương c ủa mình cho con cháu noi theo đã dâng trào cảm xúc khi đứng trước bàn thờ tổ tiên, khói hương nghi ngút và bỗng thấy mình như được phân thân. Quên hết xung quanh, "Trong giây lát, nhập vào vòng xúc động tri âm tổ tiên, ông Bằng lâng lâng những ho ài niệm phiêu diêu, lãng đãng gần xa, ẩn hiện tầng tầng lớp lớp những hình ảnh khi tỏ khi mờ chập chờn như trong chiêm bao" [22,86]. Đứng trước bàn thờ tổ tiên, ô ng như tìm được sự thanh thản trong tâm hồn và có lẽ chính cội nguồn, tổ tiên là chỗ dựa tinh thần giúp ông đứng vững trong những lúc gian nguy, hụt hẫng. Trong dòng vô thức đó bỗng tuô n trào trong suy nghĩ khiến cho ông như được đối thoại với cha mẹ, tổ tiên mình: "Thưa thầy mẹ, đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu. Con vẫn văng vẳng nghe đâu đây lời giáo huấn của ông cha, tổ tiên" [22,86]
Ma Văn Kháng đã đi sâu khám phá và khơi rộng vào thế giới tâm linh của con người thời hiện đại, tạo nên tinh thần lạc quan vĩnh hằng có thể đủ sức chiến thắng vượt qua tất c ả.
Bà nội Duy (Côi cút giữa cảnh đời) vốn kiên cường chống lại mọi thế lực tàn ác ở địa phương để bảo vệ hai đứa trẻ côi cút của mình, vậy mà trong những lúc gặp cơn bĩ cực, lao lung bà vẫn viện cầu và trò chuyện trước bàn thờ chồng. Lúc đó bà chẳng giấu giếm ông điều gì cho dù giữa bà và ông giờ đây là hai phương trời cách biệt: "Bà ngồi ngẩn, mặt thẫn thờ theo làn khói toả, như tìm kiếm giao hoà, như có một hình bóng rất gần gũi thân thương thấp thoáng xa gần trong cảm nhận thầm lặng của bà" [23,26]. Trong những phút giây đắm mình trong một thế giới tâm linh
đó, bà như có thêm nghị lực và tình yêu đủ để chở che cho hai đứa cháu côi cút tội nghiệp của mình.
Trên con đường đi tìm "vẻ đẹp ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người" cũng giống như các nhà văn cùng thời, Ma Văn Kháng miêu tả thế giới tâm linh của con người vừa cụ thể, vừa siêu thoát. Với mong mỏi khi quay trở về quá khứ con người có thêm sức mạnh, có thêm điểm tựa, có niềm tin rũ bỏ những bụi bặm của của cuộc sống, thanh lọc tâm hồn, giúp con người trở nên đẹp đẽ hơn, cao quý hơn.
Ngay những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Ma Văn Kháng đã có xu hướng nghiêng về xây dựng, thể hiện các giá trị nhân cách, phẩm giá và số phận cá nhân. Đấy có thể được coi là một sự phát triển trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, một cơ sở cho giọng điệu trữ tình sâu lắng cho tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của ông.
Không tham gia trực tiếp vào các biến cố, các sự kiện của câu chuyện, của các nhân vật, nhưng giọng điệu trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng lại đóng một vai trò rất quan trọng. Nó không những đem đến cho tác phẩm chất trữ tình bay bổng, lãng mạn, dào dạt, sâu lắng mà còn thể hiện cái nhìn sắc sảo, tinh vi c ủa một Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới.
Không chỉ viết về con người với sự cảm nhận sâu sắc ở mọi phương diện, Ma Văn Kháng còn rất nhạy cảm với thiên nhiên. Thiên nhiên với những hình ảnh đẹp đi vào trang văn của ông mang một màu sắc thật đặc biệt. Khi miêu tả vẻ đẹp huyền diệu của thiên nhiên, giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng một lần nữa lại được vang lên trong những trang văn của Ma Văn Kháng. Nó đã tạo nên những dư vị nhẹ nhàng, tinh tế mà lắng đọng trong tâm hồn người đọc. Mỗi lần thưởng thức những đoạn văn đặc tả khu vườn trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của nhà văn, ta tưởng như lại nghe tiếng ve kêu râm ran, tiếng lá cây xào xạc hoà cùng âm thanh êm ái, dịu dàng c ủa bản nhạc Vườn khuya. Khu vườn nhỏ xinh xắn, to ả bóng mát quanh năm ấy được Ma Văn Kháng nhắc đi nhắc lại 12 lần trong tác phẩm. Mỗi lần khu vườn hiện lên với một nét đẹp quyến rũ riêng. Xuân về, cây "bật nẩy chồi non, khu vườn toả một làn không khí tươi lành và thanh tịnh". Chớm hạ, cây "xanh đầm lá non". Thu sang, hoa táo nở bung "trắng ngà cả góc vườn". Đô ng đến, cây "thu mình
gọn ghẽ", vườn cây đ ang đón đợi ánh trăng non ghé xuống tâm tình. Khu vườn đã trở thành người bạn đồng hành chứng kiến, sẻ chia, an ủi từng con người trong gia đình ông Bằng để họ lấy lại là niềm tin, sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn và bước tiếp. Mỗi khi miêu tả khu vườn, nhà văn sử dụng nhiều từ ngữ giàu hình ảnh vừa tươi mới, vừa trong trẻo đưa người đọc lạc bước vào khu vườn với nguồn cảm mới.
Giọng điệu trữ tình, thiết tha s âu lắng đã tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn riêng cho các sáng tác của Ma Văn Kháng. Nó còn góp phần không nhỏ trong việc thể hiện một cái nhìn mới của nhà văn. Mặt khác giọng điệu này cũng làm cho văn xuôi thu hẹp lại khoảng c ách hơn với thơ ca, làm văn xuôi giầu sức truyền cảm, rung động lòng người hơn.
Ngay từ những trang đầu tiên của tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ, Ma Văn Kháng đã miêu tả cảnh bình minh trên biển bằng giọng điệu ấy "Rạng đông lặng lẽ như một trang sách mở. Gió huýt nhẹ giọng nữ trầm trong yên tĩnh. Yên tĩnh đến mức có thể nghe được tiếng vòng sóng đang lớn dần, rì rầm tràn vào bờ, rồi thì thầm rút ra, lỉm dỉm sủi bọt, ngấm xuống vùng cát khô ở phía trong, để lại những vệt bọt trắng bã ngoằn ngoèo như những bí hiệu lạ lùng. Vọng từ xa, tiếng chân giật lùi chầm chậm của những ngư dân đánh cá đêm, đang ngửa ngực kéo vòng lưới vào bờ với tiếng giọt nước giỏ tóc tách từ mắt lưới và cú nhảy vọt đáng kinh tởm kinh hồn hòng tho át thân của những con cá bị lưới vây. Yên tĩnh như được tôn thờ. Yên tĩnh có hình mẫu một ngôi đền lớn trang nghiêm, ngăn nắp và trật tự". Mặc dù miêu tả hành động, nhưng Ma Văn Kháng vẫn đem đến cho người đọc ấn tượng về sự yên tĩnh rạng đông của biển. Có được điều đó chính là sự kết hợp một cách hiệu quả với tiết điệu nhịp nhàng của câu chữ.
Những trang viết trữ tình, đằm thắm, đặc biệt là những đoạn miêu tả nhiên nhiên của Ma Văn Kháng đã tạo nên một không gian nghệ thuật mới, một tình điệu thẩm mĩ làm cho câu chuyện chính, làm cho những tình tiết trong tác phẩm mềm mại đi rất nhiều, người đọc cảm thấy bớt nặng nề, căng thẳng trước cuộc sống hiện thực bộn bề.
Xuất phát từ những cảm xúc sâu lắng trong tâm hồn của nhà văn, cũng như tài sử dụng từ ngữ một cách linh hoạt, Ma Văn Kháng sử dụng giọng điệu trữ tình với mong muốn thể hiện niềm tin yêu của mình vào cuộc sống, con người và hướng con người tới cái chân - thiện - mỹ. Chính sự mong mỏi này đã đem lại vẻ đẹp trên từng trang văn của tác giả và tâm huyết của nhà văn trước cuộc đời.
2.2.2. Giọng điệu triết lý, triết luận
Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, Ma Văn Kháng là nhà văn luôn dị ứng với kiểu viết công thức, rập khuôn theo những lối mò n quen thuộc. Ông không bằng lòng với chính mình và luôn tự đổi mới để vượt lên chính mình. Vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Ma Văn Kháng đã mạnh dạn đổi mới tư duy nghệ thuật, chuyển mạch văn ngợi ca giàu chất trữ tình, rưng rưng hào sảng sang khuynh hướng phê phán. Chính vì vậy, khi đến với tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới ta còn bắt gặp giọng điệu mang đậm tính triết lí, triết luận. Cũng như nhiều cây bút văn xuôi thời kỳ này, Ma Văn Kháng luôn có xu hướng tìm kiếm ý nghĩa triết lí nhân sinh qua việc miêu tả hiện thực cuộc sống đem lại cho tác phẩm chiều sâu chính luận, triết luận.
Sau 1975, đặc biệt là sau 1986, đất nước ta có nhiều đổi thay. Những cách viết đơn giản, công thức, sơ lược như trước đây khô ng còn được độc giả chấp nhận. Sứ mệnh của nhà văn lúc này là phải tự đổi mới mình để làm mới văn học. Vì thế, trong sự nghiệp đổi mới văn học nói chung, đổi mới tư duy tiểu thuyết nói riêng, cảm hứng khám phá, suy ngẫm, tìm kiếm những vẫn đề có ý nghĩa triết lý nhân sinh trở thành dòng mạch chính của văn xuôi Việt Nam đương đại. Không ít sáng tác của Lê Lựu, Tạ Duy Anh, Nguyễn Huy Thiệp… mang tính triết lý sâu sắc. Chính chất triết lý, triết luận trong sáng tác của Ma Văn Kháng đã đem đến cho ông một giọng điệu riêng (giọng tranh luận, tranh biện) góp phần quan trọng tạo nên phong c ách nghệ thuật văn xuôi Ma Văn Kháng.
Giọng điệu triết lý, triết luận là thế mạnh c ủa văn xuôi Ma Văn Kháng. Bằng giọng điệu này, tác giả đã đặt ra trong tác phẩm của mình hàng loạt các vấn đề cuộc sống hôm nay để nhân vật, nhà văn và độc giả cùng bình luận: vấn đề truyền thống