Theo nhận định của thượng tá Tr. Th. Kh. (Chính ủy, Lữ đoàn A), cho biết: “Đối với cán bộ cấp phân đội mới nhận chức vụ từ 1 đến 2 năm đa phần là ở cấp trung đội, là các đồng chí mới ra trường nhận nhiệm vụ, kiến thức, kinh nghiệm trong quản lí, chỉ huy còn có những hạn chế nhất định, kĩ năng chỉ huy chưa được thể hiện rõ so với những cán bộ cấp phân đội đã công tác nhiều năm. Do vậy, đánh giá chung cán bộ cấp phân đội có số năm nhận chức vụ đang đảm nhiệm từ 1 đến 2 năm có kết quả chỉ huy đơn vị và năng lực chỉ huy thấp hơn so với các cán bộ đã công tác lâu năm. Tuy nhiên, nếu cán bộ cấp phân đội giữ chức vụ lâu, trên 5 năm, nhất là ở trung đội và đại đội, chúng tôi nhận thấy ở họ lại có một số biểu hiện về tâm lí và thái độ chưa tích cực trong quản lí chỉ huy đơn vị như: hay mệnh lệnh, ít gần gũi cấp dưới, giảm sút sự nhiệt tình, mặc dù họ có kĩ năng chỉ huy tốt hơn so với những cán bộ mới nhưng đánh giá chung kết quả chỉ huy đơn vị và năng lực chỉ huy lại thấp hơn so với nhóm cán bộ nhận chức vụ đang đảm nhiệm từ 3 đến 5 năm”.
Các đồng chí H. Ng. Ph. (Chính ủy, Lữ đoàn C) và đại tá Tr. H. H. (Lữ đoàn trưởng, Lữ đoàn D) cũng nhất trí với ý kiến của đồng chí Tr. Th. Kh. Ngoài ra các đồng chí còn cho biết thêm: Đối với cán bộ cấp phân đội giữ chức vụ lâu năm ở 1 cương vị thường có biểu hiện chủ quan, ít chủ động học tập, nghiên cứu cập nhật kiến thức mới so với những năm đầu nhận chức vụ và các đồng chí cho rằng đối với cán bộ cấp trung đội nên được bố trí đảm nhiệm từ 2 đến 4 năm, đối với cán bộ cấp đại đội từ 3 đến 5 năm, cán bộ cấp tiểu đoàn từ 4 đến 6 năm là khoảng thời gian phù hợp nhất để đội ngũ cán bộ cấp phân đội phát huy hết trình độ, năng lực và tinh thần, thái độ trong công tác.
Những ý kiến của 3 đồng chí với tư cách là cán bộ cấp Lữ đoàn của 3 Lữ đoàn Công binh đã góp phần làm sáng tỏ và lí giải về sự khác biệt trong thực trạng năng lực chỉ huy xét theo số năm giữ chức vụ.
Năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh hiện nay đang ở mức độ khá (ĐTB = 3.52). Trên 4 mặt biểu hiện năng lực chỉ huy thì thái độ trong hoạt động chỉ huy của cán bộ cấp phân đội có điểm đánh giá
cao nhất (ĐTB = 3.69, ở mức độ khá); Kĩ năng chỉ huy có điểm đánh giá thấp nhất (ĐTB = 3.33, ở mức độ trung bình); Kiến thức chỉ huy được đánh giá ở mức độ khá (ĐTB = 3.59, xếp thứ 2); Kết quả của hoạt động chỉ huy ở mức độ khá (ĐTB = 3.46, xếp thứ 3). Có sự tương đồng trong kết quả đánh giá của 2 nhóm khách thể khảo sát là 333 cán bộ cấp phân đội và 235 chiến sĩ công binh.
Trên tổng số 333 cán bộ cấp phân đội công binh trong diện khảo sát, có thể phân ra làm 3 nhóm là: Nhóm 1 chiếm 45.04% là các cán bộ có năng lực chỉ huy ở mức độ trung bình, nhóm 2 chiếm 42.34% là các cán bộ có năng lực chỉ huy ở mức độ khá và nhóm 3 chiếm 12.62% là các cán bộ có năng lực chỉ huy ở mức độ tốt. Đồng thời, nghiên cứu cũng đã chỉ ra 12 giá trị của hàm 1 là các giá trị quyết định nhiều nhất đến mức độ năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh hiện nay.
Không có sự khác biệt về kết quả đánh giá năng lực chỉ huy xét theo ngạch sĩ quan (chỉ huy, chính trị và kĩ thuật) của cán bộ cấp phân đội. Năng lực chỉ huy tỉ lệ thuận với chức vụ đảm nhiệm, chức vụ càng cao thì năng lực chỉ huy càng cao. Có sự khác biệt ở kết quả đánh giá năng lực chỉ huy theo năm giữ chức vụ. Trong đó, cán bộ cấp phân đội giữ chức vụ đang đảm nhiệm từ 3 đến 5 năm được đánh giá cao hơn 2 nhóm còn lại.
Kết quả nghiên cứu cũng đã phủ định giả thuyết về cán bộ giữ chức vụ lâu năm hơn thì có năng lực chỉ huy cao hơn. Từ đó, có thể đề xuất việc bố trí cán bộ cấp phân đội, cụ thể là: ở cấp trung đội nên bố trí cán bộ đảm nhiệm từ 2 đến 4 năm; cấp đại độ từ 3 đến 5 năm và cấp tiểu đoàn từ 4 đến 6 năm là phù hợp nhất để cán bộ cấp phân đội phát huy hết năng lực chỉ huy của mình.
4.2. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh
Để đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh, trong luận án đã tiến hành khảo sát và đánh giá thực trạng trên hai nội dung, đó là:
Khảo sát tự đánh giá của khách thể về mức độ của yếu tố đã được xác định để chứng minh các yếu tố này có ảnh hưởng đến năng lực chỉ huy;
Khảo sát, đánh giá thực trạng các chỉ báo là nội dung biểu hiện 6 yếu tố (xem thêm phụ lục 8.4, tr. 203) và sử dụng phép toán hồi quy tuyến tính bội để mô tả, đánh giá từng yếu tố có ảnh hưởng như thế nào đến năng lực chỉ huy.
4.2.1. Đánh giá chung về thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh
Kết quả khảo sát 6 yếu tố được xác định ở luận án thể hiện ở phụ lục
16.1 (trang 238) đã cho thấy thực trạng về mức độ của từng yếu tố đối với 333 khách thể khảo sát. Từ kết quả này, sử dụng 6 yếu tố là 6 biến độc lập để đối chiếu với mức độ năng lực chỉ huy (là biến phụ thuộc) qua phép toán phân tích cụm, phân tích biệt số và lệnh Select Case trong SPSS 20.0. Dưới đây sẽ phân tích cụ thể về xu hướng nghề nghiệp công binh là yếu tố được giả thuyết có ảnh hưởng mạnh nhất đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội công binh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Với 28 người có xu hướng nghề nghiệp công binh ở mức độ chưa bền vững thì có tới 23 người (tỉ lệ 82.14%) năng lực chỉ huy ở mức trung bình (thuộc nhóm 1) và chỉ có 5 người (tỉ lệ 17.86% ) năng lực chỉ huy ở mức độ khá (thuộc nhóm 2), không có người nào ở mức độ xu hướng này có năng lực chỉ huy tốt (nhóm 3). Ngược lại, với nhóm 3 gồm 42 người năng lực chỉ huy ở mức độ tốt thì có tới 37 (chiếm 88.09%) người có xu hướng nghề nghiệp công binh ở mức độ bền vững; 96 người có xu hướng nghề nghiệp công binh ở mức độ bình thường thì có 49 người năng lực chỉ huy ở mức độ trung bình; 42 năng lực chỉ huy mức độ khá; 5 người năng lực chỉ huy mức độ tốt (Phụ lục 16.2, tr.239). Điều này khẳng định, muốn có năng lực chỉ huy tốt thì cần có xu hướng nghề nghiệp công binh ở mức độ bền vững. Nói cách khác, xu hướng nghề nghiệp công binh có ảnh hưởng đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội công binh.
Tương tự như vây, đối với 5 yếu tố còn lại, kết quả thu được thể hiện tại phụ lục 16. 2 (trang 239) cũng cho thấy, mức độ của các yếu tố này tỉ lệ thuận với mức độ năng lực chỉ huy. Điều này chứng minh 6 yếu tố đã xác định đều có ảnh hưởng đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội.
Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng được thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 4.10. Kết quả đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng
Ghi chú:
TC: Yếu tố tố chất chỉ huy của cán bộ cấp phân đội.; XHNN: Yếu tố xu hướng nghề nghiệp công binh của cán bộ cấp phân đội.; UT: Yếu tố uy tín của cán bộ cấp phân đội.; TĐ: Yếu tố trình độ nhận thức, kĩ năng thực hành của cấp dưới.; YT: Yếu tố ý thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới.; TB: Yếu tố trang bị, khí tài, phương tiện thực hiện nhiệm vụ.; YTAH: Yếu tố ảnh hưởng đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công Binh.
Để xác định thứ bậc, tự đánh giá về tỉ lệ ảnh hưởng của các yếu tố và dự báo sự biến đổi năng lực chỉ huy trong mối quan hệ với các yếu tố ảnh hưởng, chúng tôi sử dụng kĩ thuật hồi quy tuyến tính bội, kết quả như sau:
Bảng 4.14. Tóm tắt kết quả phân tích hồi quy tuyến tính
NĂNG LỰC CHỈ HUY CỦA CÁN BỘ CẤP PHÂN ĐỘI | ||||||
Adjusted R Square | Durbin- Watson | Standardized Coefficients | p | Collinearity Statistics | ||
Beta | VIF | |||||
(Constant) | .739 | 1.683 | .000 | |||
TC | .173 | .036 | 1.02 | |||
XHNN | .375 | .018 | 1.06 | |||
UT | .239 | .001 | 1.58 | |||
TĐ | .326 | .015 | 1.57 | |||
YT | .169 | .042 | 1.22 | |||
TB | .167 | .039 | 1.48 |
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Kiến Thức Trong Quản Lí, Điều Hành Phân Đội Công Binh
- So Sánh Kết Quả Đánh Giá Giữa Cán Bộ Cấp Phân Đội Và Chiến Sĩ Công Binh Về Thực Trạng Thái Độ Trong Hoạt Động Chỉ Huy
- Kết Quả Thực Trạng Năng Lực Chỉ Huy Của Cán Bộ Cấp Phân Đội Ở Binh Chủng Công Binh Qua Kiểm Định One - Way Anova
- Thực Trạng Yếu Tố Trình Độ Nhận Thức, Kĩ Năng Thực Hành Của Cấp Dưới
- Các Mặt Biểu Hiện Năng Lực Chỉ Huy Biểu Hiện Về Kiến Thức Chỉ Huy:
- Tổ Chức Hiệu Quả Các Hoạt Động Rèn Luyện Kĩ Năng Chỉ Huy Cho Cán Bộ Cấp Phân Đội Ở Binh Chủng Công Binh
Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.
Các yếu tố ảnh hưởng được các khách thể tự đánh giá có mức độ ảnh hưởng rất mạnh đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh hiện nay (ĐTB = 4.14). Tại bảng Model Summaryb, chỉ số R2 hiệu chỉnh (Adjusted R Square - chỉ số phản ánh mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập đối với biến phụ thuộc) có giá trị là 0.739 (Phụ lục 17.7, tr. 248). Điều này khẳng định, 6 yếu tố ảnh hưởng được khảo sát (là các biến độc lập) có ảnh hưởng 73.9% đến sự biến đổi của năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội công binh, còn lại 26.1 % là do các biến ngoài mô hình và sai số ngẫu nhiên.
Kiểm định T-test để so sánh giữa cán bộ cấp phân đội và chiến sĩ công binh về kết quả đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội, cho thấy: cả cán bộ cấp phân đội và chiến sĩ công binh đều đánh giá các yếu tố có ảnh hưởng ở mức độ rất mạnh đến năng lực chỉ huy, điểm đánh giá tương ứng là 4.06 và 4.04; kết quả không cho thấy có sự khác biệt trong đánh giá của các nhóm khác thể (Phụ lục 17.3, tr. 244).
Kết quả tự đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực chỉ huy xét theo ngạch sĩ quan của cán bộ cấp phân đội công, cho thấy: Cán bộ cấp phân đội ở các ngạch sĩ quan chỉ huy tham mưu, chính trị và kĩ thuật đều đánh giá các yếu tố ảnh hưởng ở mức độ rất mạnh đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội (ĐTB từ 4.02 đến 4.09). Trong đó, kết quả đánh giá của nhóm cán bộ cấp phân đội ngạch chỉ huy (ĐTB = 4.09) cao hơn 2 nhóm còn lại. Tuy nhiên, kết quả kiểm định sâu Bonferroni, khẳng định: không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong kết quả đánh giá của cán bộ cấp phân đội xét theo ngạch sĩ quan (Phụ lục 17.4, tr. 245).
So sánh kết quả đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội theo số năm giữ chức vụ đang đảm nhiệm, cho thấy: không có sự khác biệt trong kết quả đánh giá, cả 3 nhóm cán bộ cấp phân đội giữ chức vụ đang đảm nhiệm từ 1 đến 2 năm, từ 3 đến 5 năm và trên 5 năm đều cho rằng các yếu tố có ảnh hưởng rất mạnh đến năng lực chỉ huy của họ.
(I) Chức vụ đảm nhiệm | (J) Chức vụ đảm nhiệm theo nhóm | Điểm trung bình khác biệt (I-J) | Điểm trung bình | Mức ý nghĩa (p) | Kết luận |
Cán bộ cấp trung đội | Cán bộ cấp đại đội | .04308 | 4.11 | 1.000 | Không khác biệt |
Cán bộ cấp tiểu đoàn | .21240* | .020 | Có khác biệt | ||
Cán bộ cấp đại đội | Cán bộ cấp trung đội | -.04308 | 4.06 | 1.000 | Không khác biệt |
Cán bộ cấp tiểu đoàn | .16932 | .101 | Không khác biệt | ||
Cán bộ cấp tiểu đoàn | Cán bộ cấp trung đội | -.21240* | 3.89 | .020 | Có khác biệt |
Cán bộ cấp đại đội | .04308 | 1.000 | Không khác biệt |
Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội xét theo chức vụ đang đảm nhiệm được tóm tắt qua bảng dưới đây: Bảng 4.15. So sánh kết quả đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng xét theo chức vụ đang đảm nhiệm
Bảng 4.15, cho thấy: có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0.02) trong kết quả đánh giá về thực trạng các yếu tố ảnh hưởng giữa cán bộ cấp trung đội (ĐTB = 4.11) với cán bộ cấp tiểu đoàn (ĐTB = 3.89).
Để tìm hiểu rõ hơn về thực trạng này, khi được phỏng vấn đại tá Ng. Th. L (Lữ đoàn trưởng, Lữ đoàn E) cho rằng: “Đối với cán bộ cấp trung đội, hầu hết là các đồng chí cán bộ trẻ, mới tiếp cận công việc nên sẽ bị tác động, ảnh hưởng lớn hơn từ các yếu tố khác nhau đến kết quả thực hiện nhiệm vụ của bản thân và đơn vị. Đối với đội ngũ này, cấp ủy, chỉ huy Lữ đoàn luôn có sự theo dõi, phát hiện các nội dung về mặt tố chất, năng khiếu, sở trường để có công tác bồi dưỡng và bố trí cán bộ hợp lí. Ngược lại, đối với các cán bộ tiểu đoàn, có tuổi quân, tuổi đời lớn h ơn, kinh nghiệm quản lí, chỉ huy nhiều hơn thì sự tác động của các yếu tố đến kết quả hoạt động và đến năng lực chỉ huy của họ lại ít hơn so với những cán bộ trẻ”. Ý kiến này đã làm rõ thêm và lí giải cho sự khác biệt trong kết quả đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng xét theo chức vụ đảm nhiệm của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh hiện nay.
4.2.2. Thực trạng mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh
4.2.2.1. Tố chất chỉ huy của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh Thực trạng về tố chất chỉ huy của cán bộ cấp phân đội được tóm tắt qua bảng sau: Bảng 4.16. Thực trạng yếu tố tố chất chỉ huy của cán bộ cấp phân đội
ĐTB | ĐLC | |
Thể lực của cán bộ cấp phân đội công binh | 4.12 | 0.68 |
Độ tinh nhạy ở các giác quan của cán bộ cấp phân đội công binh | 3.79 | 0.67 |
Khẩu khí của người cán bộ cấp phân đội công binh | 4.06 | 0.65 |
ĐTB chung | 3.99 | 0.51 |
Tố chất chỉ huy của cán bộ cấp phân đội có điểm trung bình đạt 3.99; Từ phụ lục 17.7 (trang 248) và bảng 4.14, cho thấy: hệ số Beta của tố chất chỉ huy là 0.173; chỉ số ý nghĩa p = 0.03; hệ số VIF = 1.021 < 2 (không sảy ra hiện tượng đa cộng tuyến). Như vậy, xét theo điểm trung bình và hệ số Beta thì yếu tố này có ảnh hưởng rất mạnh đến năng lực chỉ huy, đứng thứ 4 về
mức độ ảnh hưởng trong số 6 yếu tố được khảo sát. Nếu tố chất chỉ huy tăng lên 1 đơn vị thì năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh được tăng lên tương ứng là 0.173 đơn vị.
Có thể nói, tố chất chỉ huy của cán bộ cấp phân đội ở có tương quan thuận ở mức độ trung bình với yếu tố trang bị, phương tiện, khí tài thực hiện nhiệm vụ (r = 0.553, p = 0.000). Đồng thời, tố chất chỉ huy có tương quan thuận và chặt với 4 yếu tố còn lại, giá trị r từ 0.680 đến 0.734, giá trị p đều = 0.000, Yếu tố này tương quan thuận và chặt với năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh (r = 0.769, p = 0.000). Điều này khẳng định, bất kì sự tăng hay giảm trong kết quả về tố chất chỉ huy sẽ kéo theo sự tăng hay giảm tương ứng với các yếu tố khác, với năng lực chỉ huy và ngược lại (Phụ lục 17.2, tr. 243) .
4.2.2.2. Xu hướng nghề nghiệp công binh của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh
Kết quả khảo sát thực trạng xu hướng nghề nghiệp công binh của cán bộ cấp phân đội được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4.17. Thực trạng yếu tố xu hướng nghề nghiệp công binh của cán bộ cấp phân đội
ĐTB | ĐLC | |
Nhu cầu về vật chất và tinh thần của cán bộ cấp phân đội công binh | 4.12 | 0.67 |
Động cơ nghề nghiệp công binh của cán bộ cấp phân đội công binh | 4.31 | 0.64 |
Mục đích đúng đắn trong hoạt động của cán bộ cấp phân đội công binh | 4.30 | 0.62 |
ĐTB chung | 4.24 | 0.56 |
Xu hướng nghề nghiệp công binh của cán bộ cấp phân đội là yếu tố được đánh giá với ĐTB = 4.24. Bảng 4.14, cho thấy: hệ số Beta là 0.375; chỉ số ý nghĩa p = 0.018 < 0.05; hệ số VIF = 1.064 < 2 (không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến). Như vậy, xét về ĐTB và hệ số Beta thì yếu tố này có ảnh hưởng rất mạnh đến năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội công binh và là yếu tố đứng thứ 1 (cao nhất) về mức độ ảnh hưởng trong số 6 yếu tố được khảo sát. Nếu xu hướng nghề nghiệp công binh tăng lên 1 đơn vị thì năng lực chỉ huy được tăng lên tương ứng là 0.375 đơn vị (Phụ lục 17.7, tr. 248).
Có thể nói, xu hướng nghề nghiệp công binh của cán bộ cấp phân đội tương quan thuận ở mức độ trung bình với yếu tố trang bị, phương tiện, khí tài
thực hiện nhiệm vụ (r = 0.580, p = 0.000). Đồng thời, yếu tố này có tương quan thuận và chặt với 4 yếu tố còn lại (r từ 0.637 đến 0.786, giá trị p đều = 0.000). Yếu tố này có tương quan thuận và rất chặt với năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội (r = 0.890, p = 0.000). Điều này khẳng định, sự tăng hay giảm trong kết quả về xu hướng nghề nghiệp sẽ kéo theo sự tăng hay giảm tương ứng các yếu tố khác, với năng lực chỉ huy và ngược lại (Phụ lục 17.2, tr. 244).
4.2.2.3. Uy tín của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh
Kết quả khảo sát thực trạng uy tín của cán bộ cấp phân đội được thể hiện qua bảng sau (xem thêm phụ lục 17.1.3, tr. 240):
Bảng 4.18. Thực trạng yếu tố uy tín của cán bộ cấp phân đội
ĐTB | ĐLC | |
Sự tín nhiệm của cấp trên dành cho cán bộ cấp phân đội công binh | 4.12 | 0.65 |
Sự tin tưởng của cấp dưới đối với cán bộ cấp phân đội công binh | 4.24 | 0.65 |
Sự tuân theo của cấp dưới đối với mệnh lệnh của cán bộ cấp phân đội công binh | 4.06 | 0.71 |
ĐTB chung | 4.14 | 0.56 |
Uy tín của cán bộ cấp phân đội được đánh giá với ĐTB là 4.14. Hệ số Beta của yếu tố này là 0.239, chỉ số ý nghĩa p = 0.001 < 0.05; hệ số VIF =
1.583 < 2 (không xảy ra đa cộng tuyến). Như vậy, xét về ĐTB và hệ số Beta thì uy tín của cán bộ cấp phân đội có tác động ảnh hưởng rất mạnh đến năng lực chỉ huy của họ. Đây là yếu tố đứng thứ 3 về mức độ ảnh hưởng trong số 6 yếu tố được khảo sát và nếu yếu tố này tăng lên 1 đơn vị thì năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội tăng lên tương ứng là 0.239 đơn vị (Phụ lục 17.7, tr. 248).
Uy tín của cán bộ cấp phân đội tương quan thuận ở mức độ chặt với 5 yếu tố còn lại, giá trị r từ 0.624 đến 0.786, (p đều = 0.000). Uy tín có tương quan thuận và rất chặt với năng lực chỉ huy của cán bộ cấp phân đội ở Binh chủng Công binh (r = 0.844, p = 0.000). Điều này khẳng định, bất kì sự tăng hay giảm trong kết quả về uy tín sẽ kéo theo sự tăng hay giảm tương ứng với các yếu còn lại, với năng lực chỉ huy và ngược lại (Phụ lục 17.2, tr. 243).
4.2.2.4. Trình độ nhận thức, kĩ năng thực hành của cấp dưới
Kết quả khảo sát thực trạng về trình độ nhận thức, kĩ năng thực hành của cấp dưới ở phân đội công binh được tóm tắt qua bảng sau: