tranh. Theo Karl Marx, cạnh tranh được định nghĩa là “sự đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại, đồng giá trị nhằm đạt được những ưu thế lợi ích, mục tiêu xác định”.
Trong tác phẩm “Kinh tế học” của tác giả Paul A.Samuelson và William D. Nordhaus [89], Cho rằng “cạnh tranh là mức độ mà hàng hóa của một quốc gia có thể cạnh tranh trên thị trường”; điều này phụ thuộc chủ yếu vào giá cả tương đối của các sản phẩm trong và ngoài nước. Ngoài ra, các chính sách về thương mại giúp phát triển hệ thống thương mại mở sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và sự tiếp nhận các công nghệ.
Bên cạnh những tài liệu nghiên cứu về cạnh tranh nói chung, các nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và riêng ngành ngân hàng cũng được nhiều tác giả nước ngoài tập trung nghiên cứu trong thời gian qua.
Tác giả Paolo Coccorese đã thực hiện nghiên cứu “ Đánh giá các điều kiện cạnh tranh của hệ thống ngân hàng tại Ý: Một số bằng chứng thực nghiệm” [90] nhằm xác định mức độ cạnh tranh, các đặc điểm chính của thị trường ngân hàng và đưa ra một số khuyến nghị đối với hệ thống ngân hàng tại Ý trong giai đoạn 1988 - 1996. Kết quả nghiên cứu cho thấy các ngân hàng Ý giai đoạn 1988 - 1996 kiếm được doanh thu nếu trong điều kiện cạnh tranh độc quyền.
Bert Scholtens (2000) đã tiến hành nghiên cứu về “Cạnh tranh, tăng trưởng và hiệu quả của ngành công nghiệp ngân hàng” [79]. Thông qua phân tích mối quan hệ giữa cấu trúc thị trường và hiệu quả của ngân hàng. Nghiên cứu chỉ ra rằng lợi nhuận của ngân hàng tỷ lệ nghịch với tài sản của ngân hàng và tỷ lệ thuận với vốn chủ sở hữu.
Nghiên cứu của Michael Dunford, Helen Louri và Manfred Rosenstock về “Sự cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các chính sách của doanh nghiệp” [86]. Ông cho rằng “đối với kinh tế vi mô, doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là doanh nghiệp đạt được các cải thiện bình quân về chất lượng hàng
hóa và dịch vụ cùng với/hoặc giảm chi phí liên quan nhằm cho phép doanh nghiệp tặng lợi nhuận và/hoặc thị phần lớn hơn”.
Khi nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của ngành ngân hàng vào năm 2003, “Yếu tố nào thúc đẩy cạnh tranh ngân hàng? Một số bằng chứng quốc tế” [92], Tác giả Stijn Claessens và Luc Laeven đã cho thấy sự gia tăng hiện diện của các ngân hàng nước ngoài và sự giảm thiểu các quy định hạn chế hoạt động trong ngành ngân hàng có thể giúp cho hệ thống ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh.
Có thể bạn quan tâm!
- Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế - 1
- Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế - 2
- Nghiên Cứu Về Năng Lực Cạnh Tranh Của Hệ Thống Ngân Hàng Là Hướng Nghiên Cứu Được Nhiều Nhà Khoa Học Quan Tâm Với Các Công Trình Tiêu Biểu Sau
- Những Khoảng Trống Và Những Vấn Đề Cần Nghiên Cứu Của Tác Giả
- Nội Dung, Tiêu Chí Đánh Giá, Nhân Tố Ảnh Hưởng Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 198 trang tài liệu này.
“Nghiên cứu so sánh hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng Châu Âu” [80]. Nghiên cứu được tiến hành vào năm 2003 bởi Barbara Casu và Philip Molyneux nhằm phân tích cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Châu Âu trong bối cảnh thị trường Châu Âu thống nhất trong giai đoạn 1993-1997. Kết quả nghiên cứu cho thấy kể từ khi có chương trình thị trường Châu Âu thống nhất, mức hiệu quả hoạt động của ngân hàng có sự cải thiện nhẹ. Ngoài ra, sự khác biệt giữa các thị trường ngân hàng ở các quốc gia ở Châu Âu chủ yếu phụ thuộc vào các yếu tố riêng của từng quốc gia.
Trong bài viết “Khái niệm về năng lực cạnh tranh của lĩnh vực tài chính” của tác giả Mamiko Yokoi-Arai và Naoyuki Yoshino [85]. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được xác định bởi các yếu tố như sau: Sự hiệu quả của hoạt động kinh doanh (ROA, ROE, năng lực quản lý tài chính), Quy mô (Thị phần tiền gửi và cho vay, Quy mô doanh số bán lẻ: số chi nhánh, quy mô tài sản), Công nghệ thông tin (hệ thống quản trị dữ liệu), Quản lý nguồn lực (Quản lý nguồn nhân lực, quản lý doanh nghiệp).
Nhằm khám phá mối tương quan giữa khả năng cạnh tranh và hiệu quả của ngành ngân hàng và tăng trưởng kinh tế ở Ai Cập, tác giả Sunil S. Poshakwale và Binsheng Qien (2011) đã thực hiện nghiên cứu với chủ đề “Năng lực cạnh tranh và hiệu quả của ngành ngân hàng và tăng trưởng kinh tế ở Ai cập” [93], nghiên cứu cho thấy chương trình cải cách tài chính tại Ai Cập có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa thống kê đến năng lực cạnh tranh của
ngành ngân hàng trong giai đoạn từ 1992 - 2007. Ngoài ra, ngân hàng nhà nước có năng lực cạnh tranh thấp hơn so với ngân hàng tư nhân; và ngân hàng nước ngoài có năng lực cạnh tranh thấp hơn so với ngân hàng trong nước.
Nghiên cứu của Rosita Suhaimi và cộng sự về “Thực hành quản lý quan hệ khách hàng và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại ở Kenya” [91]. Cho thấy mối tương quan thuận giữa quản lý quan hệ khách hàng và năng lực tiếp thị đã gián tiếp tác động đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại tại Kenya. Ngược lại, các yếu tố thuộc về tổ chức như số năm hoạt động, quy mô tổ chức, cơ cấu sở hữu, nhóm khách hàng, uy tín hoạt động, thời gian thực hiện quản trị quan hệ khách hàng và trình độ công nghệ không thể hiện mối tương quan có ý nghĩa thống kê đối với năng lực cạnh tranh của tổ chức.
Một nghiên cứu khác của Rosita Suhaimi và các cộng sự về “Hiệu quả lợi nhuận và năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng ở Malaysia” [91]. Cho thấy hiệu quả lợi nhuận và năng lực cạnh tranh có mối tương quan đạt ý nghĩa thống kê tại các ngân hàng tại Malaysia.
Osmis Areda Habte đã thực hiện đề tài về “Điều kiện cạnh tranh trong hệ thống Ngân hàng ở Thụy Điển” [88]. Nghiên cứu tập trung đánh giá về các ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính đến khả năng cạnh tranh của trong hệ thống Ngân hàng Thụy Điển giai đoạn 2003 - 2010. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các ngân hàng thương mại hoạt động trong môi trường cạnh tranh cao hơn so với các ngân hàng tiết kiệm. Ngoài ra, năng lực cạnh tranh của ngân hàng có sự sụt giảm nhẹ sau giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu trong giai đoạn 2003-2010.
Micheal Koetter (2013) đã phân tích cấu trúc thị trường của các Ngân hàng ở Đức để đánh giá sức mạnh của thị trường thông qua nghiên cứu “Cấu trúc thị trường và sự cạnh tranh trong hệ thống Ngân hàng Đức” [87]. Nghiên cứu thể hiện rằng năng lực cạnh tranh của các ngân hàng có sự khác nhau theo khu vực địa lý tại Đức; cụ thể, năng lực cạnh tranh của ngân hàng thấp
nhất là ở vùng Đông Bắc của Đức và cao nhất là ở vùng Tây Nam của Đức.
Nghiên cứu “Cạnh tranh ngân hàng và ổn định tài chính ở Châu Á Thái Bình Dương” được thực hiện năm 2014 bởi Fu, Xiaoqin và cộng sự [83]. Công trình đã cho thấy sự tập trung cao hơn đã thúc đẩy sự đổ vỡ tài chính và sức mạnh định giá kém hơn cũng gây ra rủi ro ngân hàng sau khi kiểm soát nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô, các yếu tố đặc thù ngân hàng, quy định và thể chế ngân hàng. Về mặt quy định và thể chế, kết quả cho thấy các hạn chế đầu vào khó khăn hơn có thể có lợi cho sự ổn định của ngân hàng, trong khi các chương trình bảo hiểm tiền gửi mạnh hơn có liên quan đến sự đổ vỡ của ngân hàng.
Habib Hussain Khan và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu “Cạnh tranh ngân hàng và sự mở rộng chính sách tiền tệ thông qua kênh cho vay của ngân hàng: Bằng chứng từ các nước ASEAN” [84] nhằm xem xét tác động của cạnh tranh ngân hàng đối với việc mở rộng chính sách tiền tệ thông qua kênh cho vay của ngân hàng và xác định ảnh hưởng của đặc điểm của ngân hàng đối với khả năng đáp ứng của ngân hàng đối với những thay đổi trong chính sách tiền tệ. Kết quả nghiên cứu cho thấy tác động của chính sách tiền tệ đối với các khoản cho vay của ngân hàng giảm tương ứng khi mức độ cạnh tranh của ngân hàng giảm. Tác động này càng rõ rệt đối với các ngân hàng có vốn hóa cao, thanh khoản cao và quy mô lớn. Nghiên cứu đề xuất cần có các biện pháp chính sách có thể làm giảm các tác động bất lợi của những thay đổi trong khả năng cạnh tranh của ngành ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu về “Cạnh tranh và ổn định trong ngành tín dụng: ngành ngân hàng so với ngành bao thanh toán” của Degl'Innocenti, Marta và cộng sự [82]. Tác giả đã thể hiện các kết quả chính như sau i/ các công ty bao thanh toán (bình quân) ổn định hơn các ngân hàng; ii/ sự ổn định của các công ty bao thanh toán tăng lên khi cạnh tranh giảm; và iii/ tầm nhìn cạnh tranh - đổ vỡ yếu của ngành bao thanh toán hơn so với ngành ngân hàng.
Alexia Ventouri đã thực hiện “Nghiên cứu ạnh tranh ngân hàng và hội nhập khu vực: Bằng chứng từ các quốc gia ASEAN” [76]. Công trình nhằm
tìm hiểu đặc điểm sự cạnh tranh của hệ thống ngân hàng của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong môi trường mới với khung hội nhập tài chính (AFIF) và xác định các yếu tố có thể ảnh hưởng đến các điều kiện cạnh tranh, đặc biệt là kiểm soát các điều kiện thuộc về cấu trúc và các đặc điểm thể chế. Phát hiện chính của nghiên cứu cho thấy mặc dù vẫn có sự không đồng nhất ở mức độ cao ở thị trường ngân hàng giữa các quốc gia ASEAN, các ngân hàng hoạt động dưới sự cạnh tranh độc quyền và hội nhập ngân hàng chắc chắn là một mục tiêu đầy thách thức đối với khu vực. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tích cực giữa mật độ nhu cầu, sự tập trung và cạnh tranh.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
Ở Việt Nam, vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh đã có một số công trình, các nhà khoa học nghiên cứu dưới các góc độ, phạm vi khác nhau. Nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần tại các cơ sở đào tạo, trung tâm nghiên cứu còn khá mới mẻ. Tuy nhiên, quá trình tìm kiếm, khảo cứu cho thấy, mỗi công trình, đề tài đều có đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu riêng, giải quyết những vấn đề khác nhau về năng lực cạnh tranh. Liên quan đến vấn đề năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, có thể nêu ra một số công trình, đề tài khoa học tiêu biểu sau đây:
1.2.1. Nghiên cứu về năng lực cạnh tranh nói riêng Sách chuyên khảo, Năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp Việt Nam sau 05 năm gia nhập WTO tác giả Vũ Văn Phúc [31]. Tác giả đã nhận định: Năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh là một chủ đề được bàn luận rất nhiều và có nhiều cách hiểu khác nhau: Theo quan điểm tân cổ điển, dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống thì năng lực cạnh tranh của sản phẩm nhất định phải thông qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và tăng năng suất lao động. Năng lực cạnh tranh của một ngành hay một doanh nghiệp là năng lực duy trì được lợi nhuận thị phần trong và ngoài nước. Theo cách hiểu này thì
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được phản ánh ở những khía cạnh cơ bản như: Khả năng cạnh tranh của sản phẩm, khả năng duy trì và mở rộng thị phần, khả năng duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh, khả năng tăng năng suất và hiệu quả làm việc, khă năng thích ứng và đổi mới, khả năng thu hút nguồn nhân lực, khả năng liên doanh và hợp tác. Michael E.Porter - người được gọi là cha đẻ của lý thuyết cạnh tranh hiện đại, cho rằng” Cạnh tranh không phải là cung cấp cái tốt nhất mà là tạo ra sự khác biệt, vì cái tốt nhất không phải người tiêu dùng nào cũng có thể mua được, do tốt nhất thường nhiều tiền nhất”.
Bài viết, Một số ý kiến về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sau 05 năm gia nhập WTO của tác giả Đỗ Đức Bình [7]. Tác giả đã nhận định: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là khả năng của doanh nghiệp tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế của mình thông qua việc hạ thấp chi phí hoặc tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm, dịch vụ nhằm duy trì và mở rộng thị phần.
Sách chuyên khảo Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa của tác giả Trần Sửu [37] và Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp theo thành phần kinh tế ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Trường Sơn [38]. Trong các cuốn sách này, các tác giả đã khái quát về cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa, các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, các yếu tố cấu thành và tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh, nhất là tác giả Nguyễn Trường Sơn đã nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản về lợi thế cạnh tranh và đánh giá lợi thế cạnh tranh đối với các doanh nghiệp theo thành phần kinh tế. Đồng thời, các tác giả đã làm nổi bật thực trạng năng lực cạnh tranh của một số doanh nghiệp Việt Nam; đưa ra các hạn chế, tồn tài và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, các tác giả cuốn sách còn dự báo và đề xuất một số các giải pháp mang tính định hướng để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa. Như vậy, các cuốn sách đều nghiên cứu về vấn đề năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói
chung trong điều kiện toàn cầu hóa, chứ chưa nghiên cứu chuyên sâu về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Mặc dù vậy, những nội dung lý luận về năng lực cạnh tranh sẽ được nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu luận án của mình.
Sách chuyên khảo Lý thuyết cạnh tranh doanh nghiệp thương mại tác giả do Phạm Văn Công chủ biên [10]. Công trình đã đưa ra lý luận thực tiễn về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại, phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại, nêu nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại, qua phần lý thuyết đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại qua một số các Tập đoàn xăng dầu Việt Nam, ngành dệt may Việt Nam, ngành xi măng Việt Nam từ đó xây dựng một số giải pháp ngằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Việt Nam.
Kỷ hiếu hội thảo khoa học cấp trường, Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, của tập thể các tác giả do Nguyễn Xuân Minh [22], Trưởng ban (2) các nhà nghiên cứu đưa ra các đề tài liên quan năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, trong đó chủ yếu nêu lên việc đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh và đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh các ngành nghề trong nước như; ngành chè, cao su, chứng khoán, du lịch, dệt may, thủy sản, logistics. Đặc biệt, tác giả ( trang
97) đã phân tích làm rõ khái niệm sát nhập mua lại Ngân hàng, phân tích phạm trù năng lực cạnh tranh của Ngân hàng, nêu lên hoạt động thực trạng, năng lực cạnh tranh của các NHTMCP sau sát nhập mua lại. Qua hội thảo này đánh giá thực trạng cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời gian qua để từ đó nghiên cứu sinh nắm bắt kế thừa để tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu trong luận án của mình.
Hội thảo khoa học cấp Nhà nước Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đổi mới, phát triển doanh nghiệp do Ban kinh tế trung ương tổ chức [4]. Tại đây, các nhà khoa học đã đưa ra nghiên cứu các vấn đề về cải thiện
môi trường kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, những kiến nghị nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân trong bối cảnh hội nhập. Tháng 9 năm 2017, Viện quản lý kinh tế trung ương tổ chức hội thảo “Chính sách cạnh tranh quốc gia”. Tại hội thảo các nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra những vấn đề về pháp luật cạnh tranh, các hành vi rào cản cạnh tranh ở Việt Nam, thực trạng cạnh tranh và nhận diện các rào cản đối với cạnh tranh gia nhập thị trường ở Việt Nam hiện nay, bài học kinh nghiệm và những chính sách cạnh tranh hiệu quả. Đến tháng 10 năm 2017, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam tiếp tục tổ chức hội thảo với chủ đề Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và hàm ý cho Việt Nam [29]. Với chủ đề này, các nhà khoa học và nhà quản lý đã đưa ra phân tích tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và hàm ý cho Việt Nam, đưa ra các bộ chỉ số đáng giá năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tại hội thảo khoa học các nhà nghiên cứu đưa ra ý kiến về việc thực hiện Nghị định của Chính phủ số: 19/2017 của Chính phủ ngày 06/02/2017 V/v Tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020. Thông qua nghị quyết này nêu lên được thực trạng đánh giá tình hình môi trường kinh doanh của Việt Nam thời gian qua, xác định mục tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó nêu trách nhiệm, nhiệm vụ các bộ ban ngành trong việc xây dựng các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh.
Nghiên cứu các báo cáo tham luận tại hội thảo khoa học cho thấy, hầu hết các tham luận đã đề cập đến vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên bình diện, khía cạnh khác nhau của mục đích hội thảo, chủ đề cần nghiên cứu. Vì vậy, chưa có báo cáo tham luận nào trực tiếp làm rõ về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần. Mặt khác, với phạm vi là các báo cáo khoa học, cho nên chưa thể hiện đầy đủ, phân tích một cách sâu sắc và kỹ lưỡng cả về lý luận và thực tiễn về năng lực