Nâng cao năng lực cạnh trạnh của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Cẩm Phả - 4


với một quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân ...

Theo K. Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa Marx đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân, và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên những chênh lệch giữa giá cả chi phí sản xuất và khả năng có thể bán hàng hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu đựơc lợi nhuận.

­ Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa là “Sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà

kinh doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hoá về mình”.

phía

­ Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1) Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất.

­ Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn kinh tế học (xuất bản lần thứ 12) cho rằng: Cạnh tranh (Competition) là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để dành khách hàng hoặc thị trường.

Hai tác giả này cho cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo (Perfect

Competition).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

Ba tác giả Mỹ khác là D.Begg, S. Fischer và R. Dornbusch cũng cho cạnh tranh là cạnh tranh hoàn hảo, các tác giả này viết “Một cạnh tranh hoàn hảo, là ngành trong đó mọi người đều tin rằng hành động của họ không gây ảnh hưởng tới giá cả thị trường, phải có nhiều người bán và nhiều người mua”.

­ Cùng quan điểm như trên, R.S. Pindyck và D.L Rubinfeld trong cuốn kinh tế học vĩ mô cho rằng: Một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, hoàn thiện có rất

Nâng cao năng lực cạnh trạnh của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Cẩm Phả - 4


nhiều người mua và người bán, để cho không có người mua hoặc người bán duy nhất nào có ảnh hưởng có ý nghĩa đối với giá cả.

­ Ở Phạm vi quốc gia, theo Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống Mỹ thì: Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường Quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của người dân nước đó.

­ Tại diễn đàn Liên hợp quốc trong báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm

2003 thì định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là “Khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt đựơc các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tính trên đầu người theo thời gian”.

Từ những định nghĩa và các cách hiểu không giống nhau trên có thể rút ra các điểm hội tụ chung sau đây.

Cạnh tranh là cố gắng nhằm giành lấy phần hơn phần thắng về mình trong môi trường cạnh tranh. Để có cạnh tranh phải có các điều kiện tiên quyết sau:

­ Phải có nhiều chủ thể cùng nhau tham gia cạnh tranh: Đó là các chủ thể có cùng các mục đích, mục tiêu và kết quả phải giành giật, tức là phải có một đối tượng mà chủ thể cùng hướng đến chiếm đoạt. Trong nền kinh tế, với chủ thể canh tranh bên bán, đó là các loại sản phẩm tương tự có cùng mục đích phục vụ một loại nhu cầu của khách hàng mà các chủ thể tham gia canh tranh đều có thể làm ra và được người mua chấp nhận. Còn với các chủ thể cạnh tranh bên mua là giành giật mua được các sản phẩm theo đúng mong muốn của mình.

­ Việc cạnh tranh phải được diễn ra trong một môi trường cạnh tranh cụ thể, đó là các ràng buộc chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân thủ. Các ràng buộc này trong cạnh tranh kinh tế giữa các doanh nghiệp chính là các đặc điểm nhu cầu về sản phẩm của khách hàng và các ràng buộc của luật pháp và thống kê kinh doanh ở trên thị trường. Còn giữa người mua với người mua,


hoặc giữa những người mua và người bán là các thoả thuận được thực hiện có lợi hơn cả đối với người mua.

­ Cạnh tranh có thể diễn ra trong một khoảng thời gian không cố định hoặc ngắn (từng vụ việc) hoặc dài (trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động của mỗi

chủ thể tham gia cạnh tranh). Sự cạnh tranh có thể diễn ra trong khoảng thời

gian không nhất định hoặc hẹp (một tổ chức, một địa phương, một ngành) hoặc rộng (một nước, giữa các nước).

 Nội dung cạnh tranh của các NHTM


NHTM cũng là doanh nghiệp vì thế môi trường hoạt động kinh doanh của các NHTM có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do xuất phát từ đặc thù của hoạt động kinh doanh Ngân hàng và những ảnh hưởng của hoạt động ngân hàng đối với nền kinh tế, cạnh tranh của NHTM có những đặc trưng riêng, đó là:

­ Các NHTM vừa cạnh tranh gay gắt vừa hợp tác với nhau: cũng như bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, trong hoạt động của mình, các ngân hàng luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau để mở rộng thị trường và thu hút khách hàng nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Tính gay gắt trong cạnh tranh ngân hàng xuất phát từ đặc thù của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có tính tương đồng cao và rất dễ bị bắt chước. Mặt khác trong cạnh tranh, các ngân hàng không chỉ sử dụng các công cụ mang tính truyền thống như phí, lãi suất, các dịch vụ… mà còn sử dụng công nghệ hiện đại để đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, sử dụng các kênh phân phối mới và nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ, tinh thần, thái độ phục vụ khách hàng…

Bên cạnh đó do điều kiện về vốn, mạng lưới, công nghệ có hạn trong khi nhu cầu, đòi hỏi về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng ngày càng cao do đó các ngân hàng cũng phải liên kết với nhau để cung cấp một hay một số sản phẩm, dịch vụ nhất định cho khách hàng.Vì vậy, để tránh đổ vỡ toàn hệ thống cũng như tiết kiệm chi phí, đảm bảo an toàn trong kinh doanh, các NHTM một mặt cạnh tranh với nhau, một mặt hợp tác chặt chẽ với nhau trong cung cấp các sản phẩm dịch


vụ.

­ Cạnh tranh ngân hàng luôn phải hướng tới một thị trường lành mạnh tránh

khả năng xảy ra rủi ro hệ thống: Các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cung cấp ra thị trường phải có chất lượng, đáp ứng ngày tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, đi vay để cho vay lại, nếu các NH cạnh tranh không lành mạnh, hoặc cạnh tranh thông qua việc tăng lãi suất huy động tiền gửi, giảm lãi suất cho vay, giảm phí dịch vụ, nới lỏng các điều kiện cho vay… sẽ làm cho nguồn thu của các Ngân hàng giảm sút, nguy cơ tiềm ẩn rủi ro tín dụng tăng cao dẫn đến rủi ro hệ thống. Vì vậy mặc dù cạnh tranh với nhau trong hoạt động, các NHTM vẫn liên kết với nhau, có thể thoả thuận để

giữ mặt bằng giá cả phù hợp đảm bảo lợi ích chung. Rủi ro trong hoạt động

ngân hàng có tính lây lan rất lớn. Nếu một ngân hàng có nguy cơ phá sản, khách hàng đồng loạt đến rút tiền, gây tâm lý hoang mang cho khách hàng gửi tiền tại các NHTM khác, khi đó sẽ xảy ra phản ứng dây chuyền khách hàng đến rút tiền tại các NHTM khác. Điều này dễ dẫn đến khả năng đổ vỡ mang tính hệ thống mà tất cả các NHTM đều bị ảnh hưởng và tác động đến toàn bộ nền kinh tế.

­ Cạnh tranh ngân hàng luôn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài như môi

trường kinh doanh, doanh nghiệp, dân cư… Cũng như các doanh nghiệp khác,

ngân hàng hoạt động và cạnh tranh nhau trong những môi trường và điều kiện kinh tế nhất định. Hoạt động kinh doanh ngân hàng chịu sự chi phối của pháp luật, các ấn phẩm dịch vụ ngân hàng đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu của những đối tượng khách hàng cụ thể.

+ Khách hàng của Ngân hàng là các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Do vậy hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng như sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng luôn chịu sự tác động của môi trường bên ngoài. Với mỗi môi trường kinh doanh nhất định, điều kiện kinh tế nhất định, khu vực địa lý nhất định, ngân hàng cần có những chính sách cụ thể, phù hợp để đưa ra các sản phẩm, dịch vụ phù hợp đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thu hút khách hàng, giành ưu thế trong


cạnh tranh.

+ Cùng với quá trình mở cửa, hội nhập của nền kinh tế, sự giao thoa về kinh tế giữa các Quốc gia ngày càng mạnh mẽ. Các ngân hàng tăng cường hợp tác với các ngân hàng nước ngoài cũng như mở rộng hoạt động kinh doanh của

ngân hàng ra thị trường các nước trên thế

giới. Lộ

trình hội nhập đòi hỏi các

NHTM trong nước phải tuân thủ các quy định quốc tế về hoạt động ngân hàng và sự tác động của phía đối tác. Mỗi sự thay đổi của tỷ giá ngoại tệ, lãi suất của các loại ngoại tệ liên quan, điều kiện kinh tế trên thế giới, chính sách tiền tệ của các nước liên quan… đều ảnh hưởng và tác động đến hoạt động kinh doanh của các NHTM trong nước. Do vậy, trong cạnh tranh, các ngân hàng cũng phải có những chính sách thích hợp để đối phó với những biến động của thị trường tài chính quốc tế.

1.1.2.2. Những công cụ cạnh tranh của NHTM

NHTM thực chất là một doanh nghiệp, cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại là một tất yếu. Cạnh tranh giữa các NHTM thể hiện ở những khía cạnh như sau:

­ Chất lượng sản phẩm dịch vụ: Các sản phẩm dịch vụ, nhất là dịch vụ ngân hàng bán lẻ, ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một quyết liệt hơn đóng vai trò tích cực hơn trong nền kinh tế.

Cạnh tranh mạnh mẽ nhất là phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ hiện đại và cung cấp cho các doanh nghiệp. Các NHTM đầu tư cho hiện đại hoá công nghệ, đẩy mạnh tiếp thị, khuyến mại, cạnh tranh mở rộng phát hành và thanh toán các loại thẻ, bao gồm các loại thẻ tín dụng quốc tế, thẻ tín dụng nội địa, thẻ rút tiền mặt, dịch vụ mobilebanking, internetbanking…cùng với xu hướng đa dạng dịch vụ mới, các NHTM cạnh tranh mở ra dịch vụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá, lãi suất, giá hàng xuất khẩu, bảo hiểm nhân thọ cho khách hàng…

Công nghệ ngân hàng: Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong ngân hàng nhất là thời đại bùng nổ công nghệ 4.0 đang hứa hẹn rộng mở và phát triển


mạnh trong thời gian tới khi các ngân hàng trong nước đẩy mạnh phát triển các dịch vụ trên nền tảng đổi mới công nghệ, nhằm tăng cường cạnh tranh, chuẩn bị cho hội nhập. Các NHTM đã không ngần ngại đầu tư hàng triệu đô la để nâng

cấp cho hệ

thống công nghệ

thông tin nhằm phục vụ

cho việc giao dịch với

khách hàng được thuận tiện hơn cũng như nhằm mở rộng các dịch vụ ngân hàng dựa trên nền tảng công nghệ như mobilebanking, internetbanking,…nhằm cung cấp dịch vụ tiện ích cho khách hàng.

Năng lực tài chính: Năng lực tài chính của NHTM được thể hiện rõ và quan trọng nhất ở quy mô vốn chủ sở hữu hay còn gọi là vốn tự có. Vốn tự có là yếu tố quyết định sức mạnh tài chính của một NHTM, là “tấm nệm chống đỡ rủi ro”. Các NHTM đang chạy đua và tìm mọi cách để tăng vốn chủ sở hữu nhằm phát triển các nguồn vốn huy động khác và bảo vệ các NHTM trước những rủi ro, các chủ nợ (người gửi tiền).

1.2. Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại‌


1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh‌


Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã định nghĩa về năng lực cạnh tranh cho cả doanh nghiệp,

ngành và quốc gia như

sau: “Năng lực cạnh tranh là khả

năng của các doanh

nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.

Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành ba cấp độ: (1) Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia, (2) Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành/sản phẩm, (3) Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ba cấp độ này có mối liên quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung, của doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng cần thiết phải đặt vấn đề này trong mối tương quan chung giữa các cấp độ năng lực cạnh tranh nêu trên.


Một mặt, tổng hợp năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp của một nước tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia đó. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia thể

hiện qua môi trường kinh doanh, cạnh tranh quốc tế và trong nước, đặc biệt

trong điều kiện hội nhập quốc tế. Trong đó, các cam kết quốc tế, các chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của ngành/sản phẩm hàng hóa trong quốc gia đó.

Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) thuộc Liên hợp quốc cho rằng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là: “Năng lực của doanh nghiệp trong việc giữ vững hoặc tăng thị phần của mình một cách vững chắc, hoặc nó cũng có thể được định nghĩa là năng lực hạ giá thành hoặc cung cấp sản phẩm bền đẹp, rẻ của doanh nghiệp, hoặc nó còn được định nghĩa là sức cạnh tranh bắt nguồn từ tỷ suất lợi nhuận”.

Cạnh tranh hiện nay là khái niệm chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường, nơi cung cầu và giá cả hàng hóa là những nhân tố cơ bản, là linh hồn của sức sống thị trường. Theo quan điểm của P. Samuelson thì: “ Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng, thị trường. [5, Tr 68].

Hiểu theo cấp độ doanh nghiệp, là việc đấu tranh giành giật từ một số đối thủ về khách hàng, thị phần hay nguồn lực của các doanh nghiệp. Tuy nhiên bản

chất của cạnh tranh ngày nay không phải tiêu diệt đối thủ mà chính là doanh

nghiệp phải tạo ra và mang lại cho khách hàng những giá trị tăng cao hơn hoặc mới lạ hơn đối thủ để họ có thể lựa chọn mình mà không đến với đối thủ cạnh tranh (Michael Porter, 1996).

Theo Bạch Thụ Cường [1,Tr45], từ điển thuật ngữ chính sách thương mại lại quan niệm năng lực cạnh tranh là “năng lực của một doanh nghiệp hoặc một ngành, một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác, quốc gia khác đánh


bại về năng lực kinh tế”.

Theo Chủ tịch Hội đồng Năng lực cạnh tranh của Mỹ [5]: “năng lực cạnh

tranh là khả

năng của một quốc gia, trong điều kiện thị

trường tự

do và lành

mạnh, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ phù hợp với yêu cầu của thị trường quốc tế”.

Diễn đàn Kinh tế thế giới [51] lại quan niệm “năng lực cạnh tranh là khả năng của một đất nước trong việc đạt được tỷ lệ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người cao và bền vững”.

Theo Nhóm tư vấn về năng lực cạnh tranh [31]: “Năng lực cạnh tranh liên quan đến các yếu tố năng suất, hiệu suất và khả năng sinh lợi. Năng lực cạnh tranh là một phương tiện nhằm tăng các tiêu chuẩn cuộc sống và phúc lợi xã hội. Xét trên bình diện toàn cầu, nhờ tăng năng suất, hiệu suất trong bối cảnh phân công lao động quốc tế, năng lực cạnh tranh tạo nền tảng cho việc tăng thu nhập thực tế của người dân”.

Tóm lại, tất cả các định nghĩa về cạnh tranh trên đây đều là phạm trù chỉ quan hệ kinh tế theo đó các chủ thể, cá thể huy động hết tất cả nguồn lực của mình, trên cơ sở sử dụng nhiều phương thức khác nhau để giành các ưu thế trên

thương trường để

đạt được mục đích kỳ

vọng và mục tiêu kinh tế

(thị phần,

khách hàng, tiện ích và lợi nhuận).

Trong quá trình nghiên cứu về cạnh tranh thì khái niệm về năng lực cạnh tranh được đề cập và được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau như năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ.

Năng lực cạnh tranh của ngành là thể hiện thực lực và lợi thế của ngành so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các yêu cầu của khách hàng để đạt doanh thu cao. Đây là yếu tố nội hàm của mỗi ngành không chỉ được tính bằng các tiêu chí về tài chính, công nghệ, nhân lực, tổ chức quản trị ngành, doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh

Xem tất cả 131 trang.

Ngày đăng: 28/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí