Những Vấn Đề Cơ Bản Về Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Nhtm‌


Môi trường kinh doanh của NHTM thể hiện ở các đặc điểm sau:

­ Tình hình kinh tế trong và ngoài nước:


+ Nội lực của nền kinh tế của một quốc gia được thể hiện qua quy mô và mức độ tăng trưởng của GDP, dự trữ ngoại hối…

+ Độ ổn định của nền kinh tế vĩ mô thông qua các chỉ tiêu như chỉ số lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán quốc tế…

+ Độ mở cửa của nền kinh tế thể hiện qua các rào cản, sự gia tăng nguồn vốn đầu tư trực tiếp, sự gia tăng trong hoạt động xuất nhập khẩu..

+ Tiềm năng tài chính, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp hoạt

động trên địa bàn trong nước cũng như xu thế chuyển hướng hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài vào trong nước.

Các yếu tố này tác động đến khả năng tích lũy và đầu tư của người dân, khả năng thu hút tiền gửi, cấp tín dụng và phát triển các sản phẩm của NHTM, khả năng mở rộng hoặc thu hẹp mạng lưới hoạt động của các ngân hàng…Từ đó làm giảm hay tăng nhu cầu mở rộng tín dụng, triển khai các dịch vụ, mở rộng thị

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

phần của NHTM. Để

đạt được các mục tiêu trên, các NHTM sẽ

Nâng cao năng lực cạnh trạnh của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Cẩm Phả - 7

áp dụng các

chiến lược khác nhau để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.

Sự biến động của nền kinh tế thế giới sẽ tác động đến lưu lượng vốn của nước ngoài vào Việt Nam thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp. Ngoài ra, chúng ảnh hưởng đến tình hình hoạt động chung của các NHTM, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có tham gia quan hệ thanh toán, mua bán với các doanh nghiệp trong nước cũng như các NHTM trong nước. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM trong nước và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các NHTM trong nước.

­ Hệ thống pháp luật, môi trường văn hóa, xã hội, chính trị:

Với đặc điểm đặc biệt trong hoạt động kinh doanh của NHTM chịu chi phối và ảnh hưởng của rất nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, luật dân sự, luật


xây dựng, luật đất đai, luật cạnh tranh, luật các tổ chức tín dụng…Bên cạnh đó, NHTM còn chịu sự quản lý chặt chẽ từ NHNN và được xem là một trung gian để NHNN thực hiện các chính sách tiền tệ của mình. Do vậy, sức mạnh cạnh tranh của các NHTM phụ thuộc rất nhiều vào chính sách tiền tệ, tài chính của chính

phủ

và NHNN. Ngoài những hệ

thống và văn bản pháp luật trong nước, các

NHTM còn phải chịu những qui định, chuẩn mực chung của tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong việc quản trị hoạt động kinh doanh của mình. Do vậy, bất kỳ sự thay đổi nào trong hệ thống pháp luật, chuẩn mực quốc tế, cũng như chính sách tiền tệ của NHNN sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của các NHTM.

 Sự gia tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế


Với quá trình mở cửa nền kinh tế, tự do hóa và hội nhập thị trường tài chính tiền tệ, sự cạnh tranh đối với ngành ngân hàng tất yếu sẽ ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt. Hiện nay, cạnh tranh giữa các NHTM không chỉ dừng ở các loại hình dịch vụ truyền thống (huy động và cho vay) mà còn cạnh tranh ở thị trường sản phẩm dịch vụ mới. Phân tích những yếu tố dưới đây có thể thấy được nhu cầu dịch vụ ngân hàng trong tương lai gần sẽ ngày càng tăng cao:

­ Sự biến đổi về cơ cấu dân cư, sự tăng dân số (đặc biệt là khu vực đô thị), sự tăng lên của các khu công nghiệp, khu đô thị mới dẫn đến số doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng tăng lên rõ rệt.

­ Thu nhập bình quân đầu người ở hầu hết các quốc gia đều được nâng lên, qua đó các dịch vụ ngân hàng cũng sẽ có những bước phát triển tương ứng.

­ Các hoạt động giao thương quốc tế ngày càng phát triển làm gia tăng nhu cầu thanh toán quốc tế qua ngân hàng.

­ Số lao động di cư giữa các quốc gia tăng lên nên nhu cầu chuyển tiền cũng như thanh toán qua ngân hàng có chiều hướng tăng cao.

Ngoài ra, thị trường tài chính càng phát triển thì khách hàng càng có nhiều sự


lựa chọn. Các yêu cầu của khách hàng đối với dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng

cao hơn cả về chất lượng, giá cả, các tiện ích lẫn phong cách phục vụ. Đây

chính là áp lực buộc các NHTM phải đổi mới và hoàn thiện mình hơn nhằm đáp

ứng nhu cầu của khách hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.


 Sự phát triển của thị trường tài chính và các ngành phụ trợ liên

quan với ngành ngân hàng


Thị trường tài chính trong nước phát triển mạnh là điều kiện để các ngân hàng phát triển và gia tăng cung vào một ngành có lợi nhuận, từ đó dẫn đến mức độ cạnh tranh cũng gia tăng.

Mặt khác, đặc điểm hoạt động của các loại hình định chế tài chính có mối liên hệ rất chặt chẽ và có sự bổ trợ lẫn nhau, như ngành bảo hiểm và thị trường chứng khoán với ngành ngân hàng. Sự phát triển của thị trường bảo hiểm và thị trường chứng khoán, một mặt chia sẻ thị phần với ngân hàng, nhưng mặt khác cũng hỗ trợ cho sự tăng trưởng của ngành ngân hàng thông qua việc cắt giảm chi phí và tạo điều kiện cho các NHTM đa dạng hóa các dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh nhờ tận dụng lợi thế theo phạm vi.

Ngoài ra, sự phát triển của ngành ngân hàng còn phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác như tin học viễn thông, giáo dục đào tạo, kiểm toán. Đây là những ngành phụ trợ mà sự phát triển của nó sẽ giúp ngân hàng nhanh chóng đa dạng hóa các

dịch vụ, tạo lập thương hiệu và uy tín, thu hút nguồn nhân lực cũng như có những kế hoạch đầu tư hiệu quả trong một thị trường tài chính vững mạnh.

1.5 Những vấn đề cơ bản về nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM‌


1.5.1 Khái niệm về nâng cao năng lực cạnh tranh‌

Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng là nâng cao khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của ngân hàng trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước. Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại


chủ yếu tập trung nâng cao các yếu tố từ tăng cường khả năng tài chính, công tác

chỉ đạo và điều hành, chất lượng đội ngũ cán bộ, uy tín và thương hiệu của

NHTM.


1.5.2. Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh‌


Thnht, xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng sau khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO thì việc mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng đã sâu rộng hơn nhiều so với trước đây do Việt Nam phải thực hiện các cam kết trong quá trình hội nhập. Về tổng thể, các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng đã cho phép các tổ chức tín dụng

nước ngoài được hiện diện ở Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau, mở

rộng phạm vi và loại hình cung cấp các dịch vụ ngân hàng, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội như mở rộng thị trường, tận dụng những kinh nghiệm quản lý, kế thừa những thành tựu khoa học của các nước đi trước, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư và sự chuyển giao kỹ thuật công nghệ, nâng vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam buộc các ngân hàng thương mại Việt Nam phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng.

Nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ ngân hàng đối với các NHTM Việt Nam hiện nay lại cần thiết hơn bao giờ hết vì không chỉ đối diện với cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các NHTM trong nước với nhau trong cuộc đấu sống còn dành thị phần, mà các NHTM Việt Nam còn phải đối mặt với các đối thủ ngân hàng nước ngoài hơn mình về nhiều mặt.

Thhai, xuất phát từ yêu cầu lợi nhuận, hầu như thu nhập trước đây của ngân hàng chủ yếu là thu dịch vụ tín dụng (chiếm 95%) tuy vậy khoản thu nhập


từ hoạt động cấp tín dụng thường có rủi ro cao vì vậy ngày nay thu nhập của ngân hàng không chỉ tập trung từ dịch vụ cho vay mà còn được tạo ra từ việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ khác. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay ngày càng giảm đi khi mà trên thị trường xuất hiện thêm nhiều ngân hàng có thể cung ứng vốn cho nền kinh tế, dẫn đến chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra ngày càng thu hẹp. Để duy trì lợi nhuận cho mình, các NHTM phải nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ bằng việc đa dạng hóa danh mục sản phẩm dịch vụ, tập trung phát

triển các dịch vụ

ngân hàng hiện đại như: Thẻ

thanh toán, đại lý

ủy thác, tư

vấn,... gắn liền với việc nâng cao chất lượng sản phẩm cung cấp cho khách hàng với mức giá cả hợp lý, khai thác tối đa những phân khúc thị trường mà hiện tại ngân hàng còn bỏ ngỏ

Thứ

ba, xuất phát từ

yêu cầu nâng cao uy tín và vị

thế

của ngân hàng

thương mại, Ngân hàng là ngành cung ứng các sản phẩm dịch vụ đặc biệt với nền kinh tế, sự thành bại trong hoạt động của hệ thống NHTM nói chung gắn liền với sản phẩm dịch vụ do NHTM cung cấp. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của NHTM là hết sức cần thiết, góp phần củng cố sức mạnh của NHTM, nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng trong nền kinh tế.

Thtư, xuất phát từ mục tiêu đáp ứng nhu cầu của khách hàng và của nền kinh tế, xu hướng quốc tế hóa hoạt động ngân hàng đã đặt các NHTM trước áp lực rất lớn của sự cạnh tranh, không những cạnh tranh giữa các NHTM mà còn cạnh tranh với các tổ chức tài chính phi ngân hàng, xu hướng này sẽ ảnh hưởng và tác động đến khách hàng của các ngân hàng trong tương lai, vì trong kinh doanh, mọi doanh nghiệp đều lấy khách hàng làm đối tượng và mục tiêu phục vụ, họ đã không ngừng nỗ lực đổi mới và xây dựng mô hình phục vụ hướng tới khách hàng, thỏa mãn tối đa các nhu cầu của khách hàng dựa trên các giới hạn chi phí cho phép. Mặt khác, kinh tế càng phát triển, thu nhập và mức sống của người dân càng nâng cao, nhu cầu của họ đối với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đòi hỏi ngày càng phải hoàn thiện, giá trị gia tăng mang lại từ các sản phẩm dịch vụ


đó ngày càng nhiều, từ nhu cầu thực tế, đòi hỏi các ngân hàng phải nhạy bén, cảm nhận thị trường để “bán cái khách hàng cần”. Để giữ được khách hàng cũ và lôi kéo thêm nhiều khách hàng mới.

Thnăm, xuất phát từ yêu cầu nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng, sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO, đến năm 2010, các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã được phép thực hiện hầu hết các nghiệp vụ ngân hàng, không bị hạn chế cung cấp sản phẩm dịch vụ nào so với NHTM trong nước, được đối xử bình đẳng, không phân biệt như đối với pháp nhân Việt Nam. Các ngân hàng nước ngoài được phép thiết lập sự hiện diện thương mại của mình tại Việt Nam dưới hình thức như: Văn phòng đại diện, chi nhánh NHTM, các NHTM liên doanh với nước ngoài có vốn nước ngoài dưới 50% vốn điều lệ, công ty cho thuê tài chính liên doanh, hoặc 100% vốn nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Điều đó cho thấy, tất yếu sẽ nổ ra cuộc cạnh tranh vô cùng khốc liệt giữa một bên là các NHTM trong nước, hoạt động còn nhiều hạn chế về cả nguồn vốn, trình độ quản lý và cả chất lượng sản phẩm dịch vụ với một bên là các tập đoàn tài chính ­ ngân hàng hùng mạnh với nguồn vốn lớn, kinh nghiêm quản trị điều hành lâu năm, danh mục sản phẩm dịch vụ đa dạng và chất lượng cao. Kỹ năng và trình độ quản trị điều hành của các ngân hàng nước ngoài đã được kiểm chứng qua hàng trăm năm hoạt động trên toàn thế giới, với các chuyên gia quản lý ngân hàng cao cấp, một mặt là lợi thế cho chính ngân hàng nước ngoài, mặt khác làm tăng nguy cơ nguồn nhân lực của các ngân hàng trong nước bị thu hút chuyển sang làm việc tại một môi trường chuyên nghiệp và hứa hẹn mức thu nhập cao hơn.

1.5.3. Nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh‌


Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các ngân hàng thương mại cần phải làm một số nhiệm vụ chính sau đây:

Một là, tăng vốn chủ sở hữu ­ yếu tố quyết định năng lực tài chính để mở rộng kinh doanh: Việc tiếp tục tăng vốn chủ sở hữu của các NHTM trong nước


là vô cùng cần thiết nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm thiểu rủi ro, đặc biệt là giúp NHTM có điều kiện thu hút thêm vốn, phát triển nhân lực, đầu tư công nghệ hiện đại, mở rộng mạng lưới, tăng cường cơ sở vật chất, tiếp thu kinh nghiệm quản trị điều hành theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Theo đó, các NHTM sẽ phải chủ động thực hiện quy mô tăng vốn trong thời gian tới như: Tăng vốn chủ sở hữu nhằm ứng phó với rủi ro, đáp ứng yêu cầu về vốn theo khung an toàn Camel, nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam; Đảm bảo đúng nguyên tắc tín dụng, thu hồi vốn cho vay đúng hạn; Kiểm tra nghiêm ngặt các dự án đầu tư, đảm bảo nguyên tắc có lợi nhuận mới đầu tư... Đồng thời, đẩy mạnh việc triển khai các phương án kinh doanh và nâng cao năng lực tài chính. Bởi vì, mục tiêu kinh doanh của NHTM là hướng đến ổn định, tích cực, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh; nâng cao khả năng cạnh tranh, giữ vững vai trò chủ lực trên thị

trường tiền tệ; cung

ứng sản phẩm dịch vụ

chất lượng cao, hoạt động kinh

doanh tăng trưởng, an toàn, hiệu quả, bền vững. Các NHTM cần triển khai hoạt động kinh doanh theo hướng lấy hiệu quả làm mục tiêu, phấn đấu tăng tỷ lệ thu lãi nội bảng, thu nợ đã xử lý rủi ro, giảm chi phí trích dự phòng rủi ro và các chi phí khác; Nâng cao khả năng tài chính và tăng lợi nhuận cho NHTM, đảm bảo ổn định và cải thiện thu nhập, đời sống cho người lao động.

Hai là, nâng cao chất lượng tín dụng: Để nâng cao chất lượng tín dụng, các NHTM cần xây dựng riêng cho mình một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng chặt chẽ hơn, cụ thể: xác lập mục tiêu tín dụng, trong đó mức độ rủi ro từ hoạt động tín dụng phải đo lường được; đồng thời, chất lượng của dự nợ tín dụng không chỉ được quan tâm ở tài sản có nội bảng, mà còn được chú ý ở các khoản mục tài sản ngoại bảng; Xây dựng, cập nhật chiến lược và chính sách quản lý rủi ro tín dụng, phù hợp với các quy định mới pháp luật Việt Nam và với các chuẩn mực quản trị rủi ro quốc tế.

Ba là, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng: Triển khai giải pháp này, thời gian tới các ngân hàng cần luôn “làm mới” mình để đáp ứng nhu cầu


hội nhập thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ. Bên cạnh việc duy trì các sản phẩm dịch vụ truyền thống, cần đẩy mạnh khai thác phát triển những sản phẩm mới như: Sản phẩm phái sinh, thu hút nguồn kiều hối trên cơ sở phối hợp với các công ty xuất khẩu lao động, các công ty dịch vụ kiều hối, các ngân hàng đại lý nước ngoài... Cùng với đó, các ngân hàng cũng có chính sách khai thác và tạo điều kiện thuận lợi phát triển dịch vụ chuyển tiền kiều hối qua hệ thống ngân hàng; triển khai dịch vụ quản lý tài sản, ủy thác đầu tư, cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng… Đặc biệt là phát triển và mở rộng các sản phẩm dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần hạn chế giao dịch tiền mặt bất hợp pháp, nâng cao tính thanh khoản của tiền đồng và hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Đồng thời, đẩy mạnh các dịch vụ tài khoản tiền gửi với thủ tục đơn giản, an toàn nhằm thu hút nguồn vốn của cá nhân trong thanh toán và phát triển dịch vụ thanh toán thẻ, séc thanh toán, tiết kiệm…

Bốn là, nâng cao năng lực phát triển nguồn nhân lực ngân hàng: muốn tăng cường năng lực cạnh tranh trong hội nhập, nhân sự của các NHTM không những phải đạt yêu cầu về số lượng mà còn phải đảm bảo về cả chất lượng, không chỉ ở nhân viên tác nghiệp mà ngay cả đối với nhân sự quản lý.

Tuy nhiên, để

có được một lực lượng nhân sự

đảm bảo cả

về chất và

lượng, các NHTM cần xây dựng một chiến lược phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển của đơn vị. Theo đó, cơ cấu, sắp xếp, bố trí cán bộ có

năng lực, trình độ, kinh nghiệm thực tế phù hợp với yêu cầu hoạt động kinh

doanh trước mắt cũng như lâu dài. Đồng thời, tăng cường tuyển dụng mới những lao động trẻ, năng động để góp phần trẻ hoá đội ngũ lao động; Nghiên cứu áp dụng công nghệ thông tin hiện đại trong quản lý sử dụng nhân lực có hiệu quả, đánh giá nhân viên gắn liền với tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp, lấy hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu, coi trọng sử dụng nhân tài và khuyến khích tài năng nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong từng giai đoạn phát triển. Cùng với đó, tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực quản lý điều hành, kiến thức ngoại ngữ, khả

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/01/2023