- Đối tượng 1: phát ra 20 phiếu; thu về: 17 phiếu; hợp lệ: 12 phiếu.
- Đối tượng 2: phát ra 30 phiếu; thu về: 24 phiếu; hợp lệ: 21 phiếu.
5.2. Phương pháp xử lý dữ liệu
+ Phần mềm phân tích dữ liệu là SPSS và Excel.
+ Phương pháp phân tích - so sánh - tổng hợp.
Từ bảng điều tra khảo sát của tác giả, đề tài nghiên cứu sẽ phân tích dữ liệu từ các câu trả lời, những cuộc phỏng vấn, và cuối cùng thu thập từ dữ liệu thứ cấp đã lấy được từ Công ty TNHH MTV nhiên liệu hàng không Việt Nam SKYPEC. Sau đó, tác giả sẽ dùng các phương pháp cụ thể để chỉ ra được thực trạng về NLCT của công ty từ các lợi thế, những thiếu sót, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến các vấn đề mà công ty đang gặp phải để mang đến lời giải phù hợp để nâng cao NLCT của Công ty TNHH MTV nhiên liệu hàng không Việt Nam SKYPEC.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nhiên liệu hàng không Việt Nam (SKYPEC).
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nhiên liệu hàng không Việt Nam (SKYPEC).
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Một số khái niệm cơ bản về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Thuật ngữ “Cạnh tranh” xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất, trao đổi hàng hóa và phát triển kinh tế thị trường. Ngày nay, thuật ngữ này ngày càng trở nên phổ biến trong nền kinh tế. Trong bất kỳ một lĩnh vực, ngành nghề nào thì khái niệm về cạnh tranh cũng xuất hiện nhưng ở các góc độ và mục đích khác nhau. Chính vì vậy, mặc dù cạnh tranh không phải là một khái niệm mới song rất khó để đưa ra một định nghĩa cụ thể, rõ ràng và thống nhất.
Theo nhà kinh tế học Michael Porter của Mỹ đã định nghĩa trong quyển “Chiến Lược Cạnh Tranh” (NXB Free Press, năm 1980) như sau: Cạnh tranh (kinh tế) là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi.
Ở góc độ thương mại, cạnh tranh là một trận chiến giữa các doanh nghiệp và các ngành kinh doanh nhằm chiếm được sự chấp nhận và lòng trung thành của khách hàng.
Trải qua quá trình thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD), các chủ thể kinh tế trong thị trường nhằm tìm kiếm lợi nhuận và đạt được mục tiêu đã định của bản thân. Điều này thúc đẩy các chủ thể kinh doanh phải không ngừng thay đổi và đưa ra các giải pháp như sử dụng nguồn lực hợp lý, ứng dụng công nghệ khoa học - kỹ thuật tiên tiến và nâng cao năng suất lao động, tìm cách thoả mãn các nhu cầu của khách hàng khi sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ của các chủ thể kinh doanh.
Từ những quan điểm trên của các nhà nghiên cứu khoa học, luận văn tiếp cận khái niệm của cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là sự ganh đua xảy ra bất cứ khi nào hai hoặc nhiều chủ thể phấn đấu dùng mọi nguồn lực sẵn có để giành được mục tiêu về lợi ích, hình ảnh so với đối thủ trên cùng một lĩnh vực hoạt động.
Sự cạnh tranh được thể hiện phổ biến như ở cùng một khu phố mà có nhiều người cùng mở hiệu bán phở bò, giữa họ tất yếu có sự cạnh tranh để giành khách hàng, từ đó giành nhiều lợi nhuận hơn người khác. Muốn vậy họ phải nâng cao tay nghề, thái độ phục vụ tố, địa điểm thuận lợi, giá thấp để được khách lựa chọn.
Ngoải ra, NLCT là những lợi thế, ưu thế vượt trội của chủ thể so với đối thủ cạnh tranh (kể cả đối thủ cạnh tranh trực tiếp và đối thủ cạnh tranh gián tiếp) trong việc đáp ứng yêu cầu và mong muốn của khách hàng mục tiêu nhằm đạt được doanh số và lợi nhuận ngày càng cao. Không chỉ vậy, một nền kinh tế luôn được thể hiện thông qua ba cấp độ của cạnh tranh, đó là:
- Cạnh tranh cấp quốc gia là cạnh tranh quốc gia là yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của tất cả các sản phẩm trên thị trường nội địa và xuất khẩu.
- Cạnh tranh ngành (doanh nghiệp) được đo lường bởi khả năng duy trì và mở rộng thị phần và lợi nhuận kinh doanh trong môi trường cạnh tranh trong nước và nước ngoài.
- Cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ được hiểu là khả năng duy trì vị trí lâu dài của sản phẩm trong thị trường cạnh tranh.
Qua đó, doanh nghiệp được thống nhất là một đơn vị tổ chức sản xuất trong đó nhân viên của công ty kết hợp các yếu tố sản xuất khác nhau để bán hàng hoá hoặc dịch vụ trên thị trường nhằm thu lợi nhuận chênh lệch giữa giá bán sản phẩm và giá trị của nó. Chính vì vậy, luận văn tiếp cận khái niệm cạnh tranh trong doanh nghiệp: Cạnh tranh của doanh nghiệp là sự ganh đua của doanh nghiệp tận dụng mọi nguồn lực sẵn có để giành được mục tiêu về lợi nhuận, thị phần và uy tín thương hiệu với các chủ thể kinh tế khác trong cùng ngành kinh doanh.
1.1.2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa trên việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. NLCT phải so với đối thủ cạnh tranh cụ thể, sản phẩm hàng hóa cụ thể trên cùng thị trường và cùng thời gian.
Theo Aldington Report (1985): “Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả thấp hơn các đối thủ khác trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng bảo đảm thu nhập cho người lao động và chủ doanh nghiệp”. Năm 1994, định nghĩa này được nhắc lại trong “Sách trắng về năng lực cạnh tranh của Vương quốc Anh” (1994).
Bộ thương mại và Công nghiệp Anh (1998) định nghĩa rằng “Đối với doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh là khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả và vào đúng thời điểm. Điều đó có nghĩa là đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất và hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác”.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được nhận biết qua năng suất lao động và sản xuất ra lợi nhuận tương đối cao, và trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các công ty đó phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh trong nước và quốc tế, theo Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD).
Tác giả Buckley trong bài báo “Measures of international competitiveness: A critical survey”, đăng trên báo Journal of Marketing Management (1988) đã tổng hợp lại rằng NLCT của doanh nghiệp cần được gắn kết với việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp với ba yếu tố: các giá trị chủ yếu của doanh nghiệp, mục đích chính của doanh nghiệp và các mục tiêu giúp các doanh nghiệp thực hiện chức năng của mình.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vẫn chưa được thống nhất về khái niệm, vấn đề được đặt ra là một định nghĩa phù hợp từ điều kiện, bối cảnh diễn ra, trình độ phát triển kinh tế thị trường của từng thời kỳ, và thể hiện các hình thức cạnh tranh của doanh nghiệp để hướng tới những tình huống có lợi và bất lợi mà không cần dựa vào lợi thế cạnh tranh trong từng lĩnh vực
Từ những quan điểm trên đây, NLCT của doanh nghiệp được hiểu là: Cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng sử dụng các nguồn lực với hiệu quả cao nhất nhằm giúp doanh nghiệp đạt được chiếm lĩnh thị phần, nâng tầm ảnh hưởng của thương hiệu, hiệu quả kinh doanh, phát triển chất lượng sản phẩm và dịch vụ vượt bậc.
Từ đó, nâng cao NLCT của doanh nghiệp là việc doanh nghiệp chủ động nắm bắt những thời cơ, chính sách của Nhà nước cũng như những thay đổi của môi trường kinh doanh và đưa ra những giải pháp để tận dụng những yếu tố bên trong doanh nghiệp như nguồn lực tài chính, con người, công nghệ,…
1.2. Các yếu tố cấu thành và các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Qua tổng hợp tài liệu từ các nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, luận văn chọn lọc và tổng hợp các yếu tố cấu thành NLCT của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố sau đây:
1.2.1.1. Nguồn lực con người
Nguồn lực con người thể hiện từ trình độ quản lý của các cấp lãnh đạo, trình độ chuyên môn của cán bộ công nhân viên, trình độ tư tưởng văn hoá của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Trình độ nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, thể hiện trong kết cấu kỹ thuật của sản phẩm, mẫu mã, chất lượng,… và từ đó uy tín, danh tiếng của sản phẩm sẽ ngày càng tăng, doanh nghiệp sẽ tạo được vị trí vững chắc của mình trên thương trường và trong lòng công chúng, hướng tới sự phát triển bền vững. Do đó, nhân lực là một nguồn lực rất quan trọng vì nó đảm bảo nguồn sáng tạo trong mọi tổ chức.
1.2.1.2. Nguồn lực tài chính
Ngoài nguồn lực con người, nguồn lực tài chính là nguồn lực liên quan trực tiếp tới NLCT của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có NLCT cao là doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào, luôn đảm bảo huy động được vốn trong những điều kiện cần thiết, có thể huy động vốn hợp lý, có kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả để phát triển lợi nhuận và phải hạch toán các chi phí rõ ràng để xác định được hiệu quả chính xác. Nếu nguồn vốn hạn chế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp như hạn chế việc áp dụng công nghệ hiện đại, hạn chế việc đào tạo nâng cao trình độ cán bộ và nhân viên, hạn chế triển khai nghiên cứu, ứng dụng, nghiên cứu thị trường, hạn chế hiện đại hoá hệ thống tổ chức quản lý…
Trong thực tế không có doanh nghiệp nào có thể tự có đủ vốn để triển khai tất cả các mặt trong hoạt động SXKD của mình. Vì vậy, điều quan trọng nhất là doanh nghiệp có kế hoạch huy động vốn phù hợp và phải có chiến lược đa dạng hóa nguồn lực tài chính.
1.2.1.3. Nguồn lực cơ sở vật chất, công nghệ
Đầu tư, hiện đại hóa trang thiết bị, công nghệ, dây chuyền sản xuất là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến NLCT của doanh nghiệp. Bởi công nghệ phù hợp cho phép rút ngắn thời gian sản xuất, giảm mức tiêu hao năng lượng, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra lợi thế cạnh tranh đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Nền tảng công nghệ tác động đến tổ chức sản xuất của doanh nghiệp, nâng cao trình độ cơ khí hóa, tự động hóa của doanh nghiệp.
1.2.1.4. Nguồn lực marketing
Khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường thông qua năng lực marketing của doanh nghiệp, đó là khả năng thực hiện chiến lược 4P (Product, Place, Price, Promotion) trong hoạt động marketing. Khả năng marketing của doanh nghiệp tác động trực tiếp tới sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng, góp phần làm tăng doanh thu, tăng thị phần tiêu thụ sản phẩm, nâng cao vị thế của doanh nghiệp. Đây là nhóm nhân tố rất quan trọng tác động tới NLCT của doanh nghiệp.
Điều tra nhu cầu thị trường và dựa trên điều tra sẵn có của doanh nghiệp để lựa chọn lĩnh vực kinh doanh phù hợp, tạo ra sản phẩm có thương hiệu được người tiêu dùng chấp nhận.
Nền kinh tế hàng hóa càng phát triển, văn minh tiêu dùng ngày càng cao, thì người tiêu dùng sẽ hướng tới tiêu dùng những hàng hóa có thương hiệu uy tín. đối với những doanh nghiệp muốn tồn tại trên thị trường phải xây dựng thương hiệu cho sản phẩm là một yếu tố tất yếu. Mặt khác, NLCT của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều khâu như tiêu thụ, khuyến mãi, nghiên cứu thị trường… do đó dịch vụ bán hàng và sau bán hàng đóng vai trò quan trọng đến doanh số tiêu thụ - vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Các tiêu chí đánh giá NLCT của doanh nghiệp là điều mà các doanh nghiệp luôn phấn đấu để có khả năng cạnh tranh tốt nhất trên thị trường.
1.2.2.1. Thị phần
Thị phần của doanh nghiệp là tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá NLCT. Đó là phần thị trường mà doanh nghiệp bán được sản phẩm của mình một cách thường xuyên và có xu hướng phát triển. Một doanh nghiệp chiếm thị phần lớn chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp đang được khách hàng, người tiêu dùng ưa chuộng, NLCT cao nên doanh nghiệp hoàn toàn có ưu thế chiếm lĩnh thị trường.
Cách tính thị phần như sau:
Thị phần tuyệt đối:
+ Cách 1 (Thước đo hiện vật):
Qhv |
Q |
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nhiên liệu hàng không Việt Nam SKYPEC - 1
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nhiên liệu hàng không Việt Nam SKYPEC - 2
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp
- Kinh Nghiệm Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Một Số Doanh Nghiệp Và Bài Học Rút Ra
- Khái Quát Về Công Ty Tnhh Mtv Nhiên Liệu Hàng Không Việt Nam (Skypec)
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Trong đó: Qhv là khối lượng hàng hóa bằng hiện vật tiêu thụ được
Q là tổng số lượng sản phẩm cùng loại tiêu thụ trên thị trường
+ Cách 2 (Thước đo giá trị)
TRdn |
TR |
Trong đó: TRdn là doanh thu của doanh nghiệp thực hiện được TR là doanh thu của toàn ngành hiện có trên thị trường
Thị phần tương đối:
Là tỉ lệ giữa thị phần tuyệt đối của doanh nghiệp so với thị phần tuyệt đối của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong ngành.
TRdn |
TRđt |
Trong đó: TRdn là doanh thu của doanh nghiệp thực hiện được
TRđt là doanh thu của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong ngành.
Để phát triển thị phần, ngoài chất lượng, giá cả, dịch vụ doanh nghiệp còn phải tiến hành công tác xúc tiến thương mại, các dịch vụ hậu mãi, đáp ứng sản phẩm kịp thời, giữ vững thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp. Vì vậy, ta thấy rằng thị phần là một tiêu chí quan trọng đánh giá NLCT của doanh nghiệp.
Thị phần và khả năng chiếm lĩnh thị trường cũng là một tiêu chí đánh giá NLCT được nhiều người quan tâm, đặc biệt đối với đối tác.
1.2.2.2. Thương hiệu
Thương hiệu được coi là sức mạnh vô hình của doanh nghiệp. Thương hiệu có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, tạo lợi thế cạnh tranh trước đối thủ. Thương hiệu doanh nghiệp được tạo nên bởi nhiều yếu tố như uy tín doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, triết lý kinh doanh… Thực tế cho thấy, một thương hiệu được người tiêu dùng chấp nhận và yêu mến cần có một quá trình lâu dài và là yếu tố đảm bảo sự thành công, phát triển bền vững cho doanh nghiệp. Trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu hàng không, uy tín, thương hiệu và vị thế của doanh nghiệp có vai trò quan trọng, tạo sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp, là yếu tố đảm bảo cho các chỉ tiêu kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp trên thị trường.
Ngày nay, thương hiệu không chỉ là một cái tên hay, nhãn mác đẹp, quảng cáo rầm rộ... mà đằng sau nó là cả một chiến lược tổng thể, nghiêm túc về quảng bá, phát triển thương hiệu. Chính vì vậy, các công ty cần có cái nhìn đúng và đủ về thương hiệu, đưa ra các chiến lược trung và dài hạn đưa uy tín công ty ngày càng vươn cao trên thị trường nội địa và quốc tế.
Thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường được phản ánh trong văn hóa doanh nghiệp, trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, tham gia hoạt động từ thiện, kinh doanh minh bạch, sản phẩm, dịch vụ cung ứng có chất lượng tốt và ổn định…Các doanh nghiệp có thương hiệu lâu năm, uy tín cao trên thị trường thì càng cần phải thường xuyên chăm sóc chất lượng, đổi mới, tạo nên sự khác biệt về chất lượng, giá cả, dịch vụ trong việc cung cấp sản phẩm.
Nếu doanh nghiệp có thương hiệu tốt cho ra đời sản phẩm mới sẽ kích thích đại bộ phận khách hàng trung thành nhanh chóng đi đến quyết định sử dụng sản phẩm, nhờ đó mà thị phần của doanh nghiệp tăng lên đáng kể.