Những Thuận Lợi Và Khó Khăn Của Du Lịch Việt Nam Khi Gia Nhập Wto


Anh

36.334

118,3

Đức

36.087

115,8

Thụy Sỹ

7.708

122,8

Italia

7.320

154,7

Hà Lan

11.146

141,7

Thụy Điển

10.039

125,4

Đan Mạch

8.358

110,1

Phần Lan

3.172

101,1

Bỉ

6.202

125,2

Na Uy

4.630

94,8

Nga

18.300

152,4

Tây Ban Nha

6.225

186,5

Úc

83.501

135,9

Niudilân

6.801

148,2

Các thị trường khác

114.503

109,1

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.

Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp ngành du lịch tỉnh Lâm Đồng sau khi gia nhập WTO - 5

(Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam)

2.1.2. Những thuận lợi và khó khăn của du lịch Việt Nam khi gia nhập WTO

2.1.2.1. Những thuận lợi:

Việt Nam vừa chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Trong xu thế chung, du lịch Việt Nam đã chủ động hội nhập quốc tế. Ngành du lịch nước ta đã bước vào một sân chơi mới với những luật lệ cạnh tranh quốc tế quyết liệt và gay gắt hơn.

Du lịch Việt Nam đang đứng trước vận hội mới, vị thế Việt Nam đã được nâng lên, "sân chơi" rộng mở và luật chơi cũng rõ ràng. Hội nhập WTO sẽ thúc đẩy việc cải thiện và mở rộng các mối quan hệ kinh tế song phương, đa phương giữa Việt Nam và các nước trên thế giới, góp phần giúp môi trường đầu tư kinh doanh nói chung và trong lĩnh vực du lịch nói riêng của nước ta ngày một thông thoáng hơn, cạnh tranh tự do và bình đẳng hơn. Đây cũng là điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động kinh doanh và phát triển du lịch.

Một thuận lợi nữa là khả năng thu hút vốn FDI của Việt Nam đang tăng trưởng. Ðây là điều kiện quan trọng giúp du lịch Việt Nam bắt kịp sự phát triển của các nước trong khu vực và thế giới. WTO đang mở ra những viễn cảnh đầu tư mới.


Nhiều tập đoàn kinh tế lớn đang hướng sự chú ý đến Việt Nam và "đổ bộ" vào đầu tư đón đầu trong lĩnh vực du lịch. Riêng phần giá cả và an ninh, Việt Nam được đánh giá cao. Việt Nam là nước có chế độ chính trị rất ổn định, là thuận lợi lớn cho các nhà đầu tư, trong đó có ngành du lịch. Trong 9 tháng của năm 2006 nguồn vốn đầu tư vào du lịch ở Việt Nam đạt 2,2 tỷ USD trong tổng vốn 5,15 tỷ USD đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Tổng cục Du lịch sẽ hướng dẫn cụ thể những cam kết thực hiện lộ trình WTO theo các kết quả đàm phán để các doanh nghiệp biết và chủ động chuẩn bị, điều chỉnh phương hướng kinh doanh, phát triển; phối hợp các địa phương, các doanh nghiệp, nghiên cứu tìm ra các giải pháp bảo đảm một môi trường du lịch lành mạnh, tăng cường công tác xúc tiến, quảng bá du lịch, thúc đẩy việc xây dựng các văn phòng đại diện du lịch Việt Nam ở nước ngoài; đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường một cách chuyên nghiệp để khai thác và mở rộng thị trường. Điều cốt lõi là toàn ngành phải xây dựng cho được những sản phẩm du lịch đặc sắc dựa trên thế mạnh tiềm năng của đất nước và từng vùng miền, làm nổi bật hình ảnh Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn, an toàn, thân thiện. Bên cạnh đó là những biện pháp trong việc đào tạo một đội ngũ cán bộ năng động và chuyên nghiệp, một lực lượng lao động giỏi chuyên môn, thông thạo ngoại ngữ đáp ứng theo yêu cầu của sự phát triển là hết sức cần thiết.

Tổng cục Du lịch cho biết lĩnh vực du lịch - dịch vụ du lịch đang được các nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp quan tâm đặc biệt. Nước ta đang mở ra những cơ hội kinh doanh lớn cho các nhà đầu tư ở khắp thế giới, sau khi Việt Nam gia nhập vào WTO. Điều này đã được minh chứng bằng số vốn cam kết đầu tư rất ấn tượng của các nhà đầu tư nước ngoài vào hàng loạt các dự án trải dài từ Bắc chí Nam.

Đây cũng là số vốn đầu tư lớn nhất cam kết đầu tư vào lĩnh vực du lịch - dịch vụ du lịch trong nhiều năm trở lại đây.


2.2.2.2. Những khó khăn:

Tuy vậy, du lịch VN cũng đứng trước rất nhiều khó khăn.

Du lịch Việt Nam đang trong giai đoạn ban đầu gia nhập WTO, cho nên phải vừa hợp tác, vừa tìm hiểu cơ chế và luật chơi quốc tế. Vì vậy có nhiều hạn chế và khó khăn, trong khi hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh. Thực tế năng lực cạnh tranh của du lịch nước ta còn thấp bởi dịch vụ chưa đa dạng, cơ sở hạ tầng không theo kịp tốc độ phát triển, chất lượng dịch vụ còn kém, giá cả cao, sản phẩm du lịch ít phong phú. Dẫn đến du lịch nước ta chưa giữ chân được khách, chưa kéo dài thời gian lưu trú của khách, tỷ lệ du khách quay lại lần sau còn thấp. Hiệp hội du lịch Châu Á – Thái Bình Dương thông báo, hiện Việt Nam đứng thứ 87/124 nước về chỉ số cạnh tranh du lịch (đứng đầu bảng là Thụy Sỹ, Singapore xếp thứ 8, Malaysia thứ 31, Thailand thứ 43...). Các yếu tố về chính sách và hạ tầng du lịch thì được xếp trong nhóm cuối cùng. Về thu nhập, năm 2006, Việt Nam thu khoảng 3 tỷ USD, trong khi Malaysia thu 17 tỷ USD, Thailand thu 13 tỷ USD. [Theo vietnamnet.vn]

Hội nhập sẽ tạo áp lực rất lớn với các doanh nghiệp du lịch Việt Nam trong cạnh tranh. Phần lớn doanh nghiệp du lịch của ta thuộc loại nhỏ, chất lượng dịch vụ hạn chế, năng lực quản lý thấp. Không một khách sạn nào ở VN có thể phục vụ được lượng khách cao cấp lưu trú từ 1.000 người trở lên. Ðội ngũ nhân lực du lịch vừa thiếu vừa yếu về trình độ ngoại ngữ và kinh nghiệm, nhất là thiếu những người có chuyên môn cao. Quá trình hội nhập, mở cửa cũng có thể tạo ra nguy cơ phá hoại môi trường và cảnh quan du lịch nếu không có sự quan tâm và những biện pháp quản lý hiệu quả. Ðó là một số thách thức chính đang đặt ra đối với ngành du lịch Việt Nam.

Hội nhập kinh tế là xu thế tất yếu. Trong quá trình hội nhập, Nhà nước chỉ hỗ trợ, tạo môi trường pháp lý thông thoáng và thuận lợi, còn thành công tùy thuộc vào sức cạnh tranh, sự năng động của doanh nghiệp. Đã đến lúc các doanh nghiệp không thể trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước mà phải thật sự tự thân vận động.


2.2. Thực trạng ngành du lịch Lâm Đồng hiện nay‌

2.2.1. Thực lực ngành du lịch Lâm Đồng hiện nay:

Để đánh giá thực lực ngành du lịch Lâm Đồng hiện tại, luận văn xin đi vào số liệu thống kê một số lĩnh vực cơ bản sau:


2.2.1.1. Thực lực về cơ sở du lịch:

- Số cơ sở lưu trú: Khách sạn có sao: 54 (Trong đó: KS 5 sao: 1, 4 sao: 2, 3 sao: 1, 2 sao: 20, 1 sao: 30) ;

Số nhà nghỉ các loại: 750

Tổng số phòng các cơ sở lưu trú: 10.000

Bảng 2.6 cho ta thấy rõ hơn về thực lực này.

Bảng 2.6


Số doanh nghiệp du lịch của tỉnh Lâm Đồng


Phân loại doanh nghiệp

DN kinh doanh lữ hành

DN kinh doanh lưu trú du lịch

DN kinh doanh dịch vụ du lịch khác

1. Doanh nghiệp Nhà nước

02

54


2. Doanh nghiệp khác

16

750


(Nguồn: Sở Du lịch-Thương mại Lâm Đồng)


- Số khu, điểm du lịch, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa : 91

Trong đó 79 điểm có khả năng đầu tư khai thác kinh doanh. Thực tế mới có 25 khu, điểm đang kinh doanh và 12 cơ sở di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc có giá trị du lịch đang được khai thác.

2.2.1.2. Thực lực hoạt động kinh doanh:

- Lượng khách du lịch đến Lâm Đồng hàng năm: Được thể hiện qua bảng

2. 7


Bảng 2.7

Lượng khách du lịch hàng năm tỉnh Lâm Đồng


Chỉ tiêu/đơn vị tính

Thực hiện năm 2005

Năm 2006

Năm 2007

Thực hiện

So với

năm 2005

Ước thực hiện

So với

năm 2006

1. Tổng số lượt khách (lượt khách)

1.560.900

1.848.000

+ 18,4%

2.000.000

+ 8,2

- Khách du lịch quốc tế

100.600

97.000

- 3,6%

160.000

+ 65

- Khách du lịch nội địa

1.460.300

1.751.000

+ 20%

1.840.000

+ 5,1

2. Doanh thu xã hội từ du lịch (tỷ đồng)

1.450

1.663

+ 14,6%

1.800

+ 8,2

(Nguồn: Sở du lịch – thương mại Lâm Đồng)

Như vậy, khách đến Lâm Đồng mấy năm gần đây tăng chậm. Khách nước ngoài chiếm tỷ lệ thấp. Năm 2007, số khách nước ngoài có tăng nhanh hơn các năm trước. Trong tình hình hiện nay, nhu cầu du lịch của người dân ngày càng tăng cao, mà Lâm Đồng có thành phố Đà Lạt là một thành phố du lịch nổi tiếng với thiên nhiên ưu đãi, có thế mạnh về du lịch sinh thái và văn hóa cồng chiêng của dân tộc K’Ho, thế nhưng lượng khách những năm gần đây đến Lâm Đồng không tăng đáng kể so với xu thế chung. Mặc dù Ngành du lịch thương mại tỉnh Lâm Đồng đã có những biện pháp kích cầu như tổ chức festival hoa, khai thông các con đường nối với các tỉnh kế cận, sửa chữa lại sân bay,… Nguyên nhân là do thiếu vốn đầu tư nên các doanh nghiệp du lịch tại Lâm Đồng còn hoạt động một cách nhỏ lẻ, tự phát; các khu du lịch chưa có sản phẩm gì đặc sắc tạo phong cách riêng, du khách đi tham quan chỗ nào cũng gặp những sản phẩm trùng lặp như hoa, đặc sản,… Chính quyền địa phương chưa có quy hoạch chung tổng thể cho các doanh nghiệp.

- Khả năng đáp ứng về số phòng so với lượng khách du lịch và giải quyết việc làm cho lao động của tỉnh: được thể hiện qua biểu đồ 2.3


Biểu đồ 2.3


Lư?ng khách (trăm lư?t)


S? phòng (phòng)


Lao đ?ng ngành (ngư?i)

Cơ số phòng, so sánh với lượng khách và số lao động ngành du lịch tỉnh Lâm Đồng (2000-2006)


20.000

15.000


10.000

Lượng khách (trăm lượt)

Số phòng (phòng)

5.000


0

Lao động ngành (người)

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006


(Nguồn: Sở du lịch – thương mại Lâm Đồng)


Qua biểu đồ ta thấy, do lượng khách đến ít nên số phòng sử dụng còn chiếm tỷ lệ thấp và số lao động được giải quyết công ăn việc làm trong ngành du lịch chưa cao.

Tuy nhiên, lượng khách du lịch đến Lâm Đồng tăng bình quân 14%/năm; năm 2000 đạt 725.000 lượt khách, đến năm 2005 tăng lên 1.400.000 lượt khách đăng ký lưu trú.

Có thể đánh giá năng lực hoạt động của du lịch Lâm Đồng trong những năm gần đây thông qua các chỉ tiêu chính về du lịch được thống kê trong bảng 2.8.


Bảng 2.8

CÁC CHỈ TIÊU VỀ DU LỊCH LÂM ĐỒNG



Stt


Chỉ tiêu


ĐVT

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

1

Lượng khách

Ngàn lượt

710

803

905

1.150

1.350

1.561

1.848,0


Khách Quốc tế

Ngàn lượt

69,58

78

85

65

86

101

97,0


Khách nội địa

Ngàn lượt

640,42

725

820

1.085

1.264

1.460

1.751,0

2

Ngày lưu trú bình quân

Ngày

2,0

2,1

2,18

2,2

2,2

2,3

2,3

3

Doanh thu xã hội từ du lịch

Tỷ đồng

355

481,8

633,5

920

1.215

1.405

1.663

4

Đầu tư

Tỷ đồng

44

72,5

100

137

145

350

500


Khu, điểm du lịch

Tỷ đồng

15

32,5

80

80

75

60

70


Cơ sở lưu trú

Tỷ đồng

27

30

20

40

40

260

400


Vận chuyển và hạ tầng du lịch

Tỷ đồng

2

10

20

17

30

30

30

5

Tổng số cơ sở lưu trú

KS, nhà nghỉ

384

400

434

550

679

690

715


Khách sạn đạt 1-5 sao

Khách sạn

18

20

24

41

42

47

54


Số phòng

Phòng

4.482

4.800

5.300

7.000

7.826

8.000

10.000

6

Công suất sử dụng phòng

%

35

37

45

45

55

55

56

7

Lao động ngành (trực tiếp)

Người

2.500

2.800

3.000

3.400

4.500

5.000

6.000

8

Lợi nhuận

Triệu đồng

63.867

90.774

117.682

144.589

171.496

279.125

304.370

9

Thuế VAT

Triệu đồng

11.871

12.220

12.568

12.917

13.265

14.659

24.630

(Nguồn Sở Du lịch – Thương mại Lâm Đồng)

Như vậy, du lịch Lâm Đồng còn đang ở dạng sơ khai, tất cả còn nằm ở dạng tiềm năng. Cơ sở du lịch mới khai thác được trên 25% (25/97 cơ sở). Kết cầu hạ tầng phục vụ kinh tế nói chung và du lịch nói riêng còn thiếu và yếu nhiều. Cơ sở lưu trú ít, số khách sạn có sao quá ít, chưa đáp ứng nhu cầu cả trước mắt và càng khó đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế trong tương lai. Doanh thu về du lịch chưa cao (lợi nhuận hàng năm thấp).


Việc đầu tư cho ngành du lịch chưa nhiều, đặc biệt là đầu tư cho hạ tầng cơ sở còn quá ít, và không tăng qua các 3 năm liên tục gần đây. Việc đầu tư cho các khu, điểm du lịch tăng nhẹ, chỉ có đầu tư cho cơ sở lưu trú là tăng mạnh, thế nhưng việc xây dựng khách sạn chỉ là tự phát của từng nhà dân nên quy mô không lớn, khách sạn sao và lớn còn rất ít, chủ yếu phục vụ thị trường khách bình dân, còn thị trường khách cao cấp thì còn bị bỏ ngỏ. Muốn đầu tư cho khách sạn cao cấp thì cần vốn lớn, vì thế cần có chính sách thu hút vốn đầu tư nhằm huy động được vốn của các nhà đầu tư của các địa phương khác và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngòai (FDI).

Khách đến Lâm Đồng có số ngày lưu trú ít, vì các khu vui chơi giải trí tại Lâm Đồng chưa nhiều, và chưa thu hút được khách đến chơi. Việc này ảnh hưởng đến doanh thu từ du lịch cũng không cao, vì đa phần là thu được tiền khách ngủ chứ chưa thu được doanh thu từ các dịch vụ khác. Từ đó số thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp thu kèm theo cũng không được cao.

Lao động trong ngành du lịch tại Lâm Đồng chưa được đào tạo, chủ yếu là khách sạn của tư nhân, người nhà tự phục vụ, chưa được đào tạo qua nghiệp vụ du lịch nên chất lượng phục vụ chưa được cao.

Lượng khách đến du lịch chưa cao, hiệu suất sử dụng phòng bình quân thấp (trung bình năm 2005 là 55%, năm 2006 là 56%). Tỷ lệ khách nước ngoài đến Lâm Đồng du lịch thấp ( năm 2005 có tỷ lệ khách nước ngoài/khách nội địa là 101/1460 (ngàn lượt người) = 6,9%; năm 2006 có tỷ lệ: 97/1751 (ngàn lượt người) = 5,5%).

- Đóng góp thu nhập từ du lịch vào GDP toàn tỉnh so với các ngành kinh tế khác trong tỉnh:

Nếu so với các ngành khác trong nền kinh tế của tỉnh trong mấy năm lại đây, ta thấy rõ thêm năng lực còn rất thấp của ngành du lịch Lâm Đồng (bảng 2.9).

Xem tất cả 80 trang.

Ngày đăng: 21/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí