Trên đây là những định hướng cơ bản của Hải quan Việt Nam trong thời gian tới. Để thực hiện tốt những mục tiêu cải cách TTHC mà Đảng, Nhà nước và ngành Hải quan đã đề ra, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới chúng ta cần có những biện pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về TTHC trong ngành Hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu sao cho phù hợp với sự phát triển, thông lệ và quy trình thủ tục trên thế giới. Sau đây là một số giải pháp được đặt ra dựa trên mục tiêu, chiến lược cũng như quan điểm của Đảng, nhà nước và trên cơ sở khắc phục những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện TTHQ trong giai đoạn vừa qua.
3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về thủ tục hải quan
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về TTHQ là nhân tố hết sức quan trọng trong quá trình cải cách TTHC trong ngành Hải quan.
Trước tiên, ngành Hải quan cần tiến hành rà soát các văn bản có liên quan tới lĩnh vực hải quan, bởi TTHQ hiện nay không chỉ chịu sự quy định của Luật Hải quan mà còn chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực khác như thuế, tài chính, an ninh quốc phòng, giao thông vận tải của hầu hết các Bộ, Ngành: Bộ Công thương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ Thông tin và Truyền thông…
Sau quá trình rà soát, ngành Hải quan cần có hướng hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật mà trong phạm vi ngành mình có thể tự tiến hành, còn đối với các vấn đề không thuộc phạm vi của ngành cần có những đề xuất, kiến nghị lên cấp cao hơn để tiến hành sửa đổi.
Mục tiêu phát triển chiến lược của ngành Hải quan đến năm 2020 là xây dựng Hải quan Việt Nam hiện đại, có cơ chế, chính sách đầy đủ, minh bạch, TTHQ đơn giản, hài hòa đạt chuẩn mực quốc tế, trên nền tảng ứng dụng CNTT, xử lý dữ liệu tập trung và áp dụng rộng rãi phương thức QLRR, đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á. Xây dựng lực lượng Hải quan đạt trình độ chuyên nghiệp, chuyên sâu có trang
thiết bị, kỹ thuật hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả góp phần tạo thuận lợi cho các hoạt động thương mại hợp pháp, phát triển du lịch, thu hút đầu tư nước ngoài, đảm bảo an ninh quốc gia, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Với mô hình quản lý hải quan hiện đại, xây dựng quy trình TTHQ thuận lợi, khoa học, tập trung và tự động hóa hoàn toàn việc xử lý thông tin, trao đổi dữ liệu điện tử, tự động hóa các khâu nghiệp vụ hải quan, áp dụng các tiến bộ của CNTT vào quản lý ngành Hải quan, nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới, nhất là từ khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới. Trước xu thế và mục tiêu đó, chúng ta cần xây dựng hệ thống các quy định pháp lý đồng bộ tập trung vào các vấn đề:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống quy trình TTHQ hiện đại, thống nhất và khoa học. Căn cứ vào các quy định của Luật Hải quan hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành để triển khai thực hiện quy trình thủ tục theo phương pháp QLRR, qua một thời gian ngắn đã thể hiện tính ưu việt hơn hẳn so với quy trình TTHQ trước đây, rút ngắn đáng kể thời gian thông quan là tiêu chí hàng đầu mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu quan tâm. Tuy nhiên, do sự thay đổi của điều kiện nền kinh tế xã hội ta cần tiếp tục tiến hành rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định nội bộ về quy trình TTHQ không còn phù hợp, gây phiền hà cho việc tiếp nhận và xử lý công việc của doanh nghiệp; kiên quyết loại bỏ các khâu trung gian, thủ tục rườm rà, chồng chéo, những loại giấy tờ không cần thiết.
Có thể bạn quan tâm!
- Xây Dựng Cơ Chế Một Cửa Quốc Gia
- Cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan hiện nay - 11
- Phân Biệt Cơ Chế Một Cửa Hành Chính Và Cơ Chế Một Cửa Quốc Gia
- Nội Luật Hóa Các Chuẩn Mực Liên Quan Đến Thủ Tục Hải Quan Điện Tử Theo Thứ Tự Ưu Tiên
- Cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan hiện nay - 15
- Cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan hiện nay - 16
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Tính hiện đại của quy trình TTHQ đó là tiếp tục triển khai mạnh các ứng dụng của CNTT vào quy trình TTHQ. Việc ứng dụng tin học vào công tác nghiệp vụ hải quan góp phần làm thay đổi tư duy, phong cách làm việc mới từ môi trường làm việc thủ công sang môi trường làm việc hiện đại với sự hỗ trợ của CNTT. Điều này sẽ góp phần làm giảm tiêu cực do sự tiếp xúc cơ học của công chức hải quan đối với hàng hóa sẽ được giảm thiểu ở mức tối đa.
Tính thống nhất của quy trình được thực hiện ở sự liên kết chặt chẽ trong quy trình nghiệp vụ, tác nghiệp cũng như các khâu thủ tục tại các địa điểm làm TTHQ. Khâu nọ nối tiếp khâu kia mà không chồng chéo, rườm rà làm ảnh hưởng tới thời gian thông quan hàng hóa, gây ách tắc tại cửa khẩu.
Tính khoa học của quy trình đó là việc quy định, triển khai quy trình TTHQ một cửa. Cụ thể có quy định về cách bố trí sắp xếp các khâu nghiệp vụ đảm bảo sự khép kín, liên tục, giảm sự tiếp xúc giữa doanh nghiệp và cơ quan hải quan.
Thứ hai, phải thiết lập được cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên, độc lập, khách quan trong nội bộ, khắc phục tình trạng thiếu công khai và minh bạch dễ phát sinh tiêu cực trong việc giải quyết các TTHC giữa doanh nghiệp và hải quan.
Thứ ba, đẩy mạnh việc nội luật hoá các chuẩn mực quốc tế liên quan đến TTHQ (đặc biệt là Công ước Kyoto) để tạo ra một quy trình TTHQ thống nhất và hài hòa với các quy trình hải quan trên thế giới nhất là các nước có thường xuyên giao dịch thương mại với Việt Nam.
Thứ tư, tháo gỡ các vướng mắc, bất cập, chồng chéo trong hệ thống pháp luật về TTHQ; bảo đảm tính thống nhất, đầy đủ, đồng bộ và khả thi của pháp luật về TTHQ.
Trên cơ sở tập trung vào các vấn đề trên, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quy trình TTHQ cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng;
- Bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất và đồng bộ với hệ thống pháp luật của Nhà nước;
- Kế thừa những nội dung của Luật Hải quan (hiện hành) còn phù hợp với thực tiễn hoạt động hải quan và dự báo được những nội dung mới trong lĩnh vực hải quan để bảo đảm tính ổn định và lâu dài.
Để có đủ cơ sở pháp lý cho việc thực hiện một quy trình TTHQ hiện đại, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp, cân đối giữa đơn giản hóa TTHQ với yêu cầu kiểm soát hải quan, Hải quan phải xây dựng một khung pháp lý hiện đại. Bất kỳ chương trình cải cách hải quan nào cũng phải tiến hành đánh giá tổng thể và hiện đại hóa luật, quy định, hướng dẫn hành chính cũng như các thủ tục hoạt động tiêu chuẩn của cơ quan hải quan sao cho chúng có thể hỗ trợ đầy đủ các yêu cầu, thủ tục và biện pháp kiểm soát mới.
Trên cơ sở đó, khung pháp lý của ngành Hải quan cần bổ sung các quy định sau:
Thứ nhất, quy định cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc quản lý hải quan theo hướng hiện đại, thực hiện TTHQĐT và cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN;
- Bổ sung quy định tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và ổn định để thực hiện chính thức và mở rộng phạm vi thực hiện TTHQ thông quan bằng phương thức điện tử đối với các khâu nghiệp vụ hải quan như tiếp nhận và xử lý thông tin trước khi hàng đến, thông quan, thủ tục thuế điện tử, nộp chứng từ điện tử, xử lý hồ sơ điện tử, lưu trữ hồ sơ điện tử (bao gồm cả việc bổ sung các chế định pháp lý về điện tử hoá: e- C/O, e-payment, e-cargo, e-clearance, e- permit)... để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và tăng cường năng lực quản lý của cơ quan hải quan.
- Sửa đổi, bổ sung để quy định đầy đủ về các thủ tục cho: hàng hoá nhập khẩu và xuất khẩu; Quản lý kho ngoại quan, khu chế xuất và các khu vực tự do thuế quan; Các chế độ chấp nhận tạm thời; Các thủ tục về quá cảnh, chuyển tải; Các thủ tục đối với hành khách xuất nhập cảnh, bưu phẩm, bưu kiện, chuyển phát nhanh; Thủ tục và chế độ quản lý phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh... Đảm bảo các chế độ hải quan đơn giản, hài hoà và tuân thủ các quy định của Công ước Kyoto sửa đổi và các chuẩn mực khác của Tổ chức Hải quan thế giới.
- Quy định cho phép nộp, trao đổi, xử lý thông tin điện tử, kiểm tra chứng từ điện tử do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp để thông quan hàng hoá cũng như trách nhiệm cung cấp thông tin dưới dạng điện tử của các cơ quan này trong cơ chế một cửa quốc gia.
Thứ hai, tiếp tục nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là các chuẩn mực tại Công ước quốc tế về đơn giản và hài hòa TTHQ sửa đổi, bổ sung năm 1999 (gọi tắt là Công ước Kyoto) để bảo đảm vừa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết tham gia, vừa phù hợp với quá trình cải cách TTHC, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế. Quá trình đối chiếu khung pháp lý với chuẩn mực quốc tế này có thể được dựa trên các chuẩn và thông lệ tốt nhất được quốc tế thừa nhận quy định trong Công ước Kyoto.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung các quy định thiếu cụ thể, thiếu thống nhất giữa Luật Hải quan với Luật Quản lý thuế, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thương mại… Ví dụ : đối với những nội dung liên quan đến Luật Quản lý thuế, một số nội dung liên quan đến hải quan được quy định cả ở Luật Hải quan và Luật Quản lý thuế. Tuy nhiên, nội dung quy định tại 2 luật không hoàn toàn thống nhất với nhau. Ví dụ như quy định về khai bổ sung, kiểm tra sau thông quan, kiểm tra thuế,... Do đó, để bảo đảm tính đầy đủ, thống nhầt dự kiến đưa các quy định về quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu tại Luật Quản lý thuế vào Luật Hải quan (sửa đổi). Những nội dung này bao gồm: quyền, nghĩa vụ của người nộp thuế; khai bổ sung, thời hạn nộp thuế, bảo lãnh, ấn định thuế, nộp thuế; hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; hoàn thuế, miễn, giảm, xoá nợ tiền thuế, tiền phạt; kiểm tra thuế, thanh tra thuế, điều tra thuế, xử lý vi phạm, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính....
3.3. Giải pháp thực hiện thủ tục hải quan điện tử
3.3.1. Xây dựng cơ sở pháp lý cho thủ tục hải quan điện tử trên cơ sở nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế
Điểm đặc thù của các TTHC trong ngành Hải quan gắn liền với các hàng hóa, phương tiện vận tải qua lại biên giới. Do đó, ngoài sự chi phối của
hệ thống pháp luật trong nước thì các TTHQ nói chung và TTHQĐT nói riêng còn chịu sự chi phối của các điều ước quốc tế phổ cập trong lĩnh vực hải quan cũng như các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ra nhập. Trong đó phải kể tới Công ước Kyoto về Đơn giản hoá và Hài hoà hoá TTHQ, năm 1997, Công ước Hài hoà mô tả và mã hoá hàng hoá (Công ước HS), năm 1998.
Thực hiện TTHQĐT không chỉ là việc đơn thuần tự động hóa những nghiệp vụ hiện tại mà về mặt bản chất, là việc hiện đại hóa các nghiệp vụ hải quan với sự hỗ trợ của pháp luật hải quan. Do đó, việc xây dựng khung pháp lý đảm bảo cho thực hiện TTHQĐT là yêu cầu cốt yếu để đảm bảo cho việc thiết kế lại các quy trình, thủ tục và mở rộng áp dụng CNTT trong các hoạt động hải quan nói chung và trong thực hiện TTHQĐT nói riêng. Với số lượng các chuẩn mực quốc tế khá lớn, nội dung cam kết của Việt Nam được thực hiện ở nhiều thời điểm khác nhau và yêu cầu đảm bảo các chính sách hỗ trợ thực thi các quy định về TTHQĐT một cách hiệu quả, lộ trình nội luật hóa các chuẩn mực giai đoạn 2009-2013 phải được xây dựng dựa trên những căn cứ cụ thể:
Căn cứ xác định lộ trình:
Thứ nhất: Căn cứ vào lộ trình thực hiện các nghĩa vụ quốc tế trong lĩnh vực hải quan của Việt Nam
Thứ hai: Theo nội dung đăng ký của Tổng cục về dự kiến chương trình xây dựng pháp luật đến 2015 thì sẽ dự thảo trình Quốc Hội ban hành Luật hải quan sửa đổi sau 2013; trong thời gian từ nay tới khi Luật Hải quan được sửa đổi, Việt Nam vẫn phải thực hiện đầy đủ, thống nhất các cam kết quốc tế cũng như đảm bảo khung pháp lý cho thực hiện TTHQĐT, đáp ứng các yêu cầu triển khai các hoạt động liên quan tới hiện đại hóa hải quan.
Thứ ba: Căn cứ vào quá trình thí điểm thực hiện TTHQĐT:
Quá trình xây dựng và thực hiện TTHQĐT đã được ngành Hải quan bắt đầu thí điểm từ năm 2005. Qua hai giai đoạn thực hiện thí điểm (từ 2005-
2007 và 2007-2009, 2009-2011), một số chuẩn mực quốc tế liên quan đã được từng bước áp dụng, đạt được những kết quả và bài học kinh nghiệm nhất định. Để đảm bảo thực hiện mở rộng TTHQĐT trong thời gian tới, ngành Hải quan cần tiếp tục nội luật hóa và đảm bảo tính thực thi của các chuẩn mực có liên quan.
Lộ trình nội luật hóa các chuẩn mực:
Giai đoạn từ 2010 tới 2013: Rà soát, nội luật hóa các chuẩn mực phù hợp với điều kiện Việt Nam ở văn bản dưới luật.
Ở giai đoạn này, để vừa đảm bảo khung pháp lý cho thực hiện TTHQĐT mở rộng, vừa đảm bảo lộ trình sửa đổi, bổ sung toàn diện khung pháp lý cho hải quan điện tử thống nhất với các quy định chung về TTHQ, ngành Hải quan cần đồng thời (1) Xây dựng khung pháp lý cho thực hiện TTHQĐT và (2) Thực hiện rà soát, phân tích khoảng cách pháp lý các quy định liên quan.
Với nội dung thứ (1), ngành cần phải áp dụng quy định tại Điều 5 Luật Hải quan về áp dụng điều ước quốc tế, tập quán và thông lệ quốc tế về hải quan, đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện TTHQ bằng cả hai phương thức thủ công và GDĐT. Theo đó, với những chuẩn mực đã được nội luật hóa, thực hiện đầy đủ thì giữ nguyên quy định; đối với những chuẩn mực lần đầu được chuyển hóa hoặc tính ổn định, hiệu quả thực thi chưa cao, sẽ quy định ở mức khái quát hoặc chi tiết vừa phải ở cấp Nghị định; nội dung chi tiết sẽ được quy định tại Thông tư hướng dẫn. Nguyên tắc ở giai đoạn này cần đảm bảo sự kế thừa các nội dung có tính ổn định, hiệu quả tại Luật Hải quan 2001, Luật Hải quan sửa đổi 2005, Nghị định 154/2005/NĐ-CP, Thông tư 222/TT-BTC để giảm thiểu tính không thống nhất, xáo trộn trong xây dựng và thực hiện văn bản quy phạm pháp luật.
Theo quy định tại Điều 5 Luật Hải quan: Về hiệu lực của điều ước quốc tế thì có thể vận dụng quy định này để nội luật hóa các chuẩn mực về TTHQĐT. Tuy nhiên, xét về tác động, hiệu lực thực tế cũng như nhằm giảm
thiểu sự chồng chéo với các quy định của Luật Hải quan thì các giải pháp cho giai đoạn từ 2010 tới 2013 chỉ mang tính trung hạn và còn tương đối chồng chéo về mặt quy định vì việc sửa đổi, bổ sung các quy định ở cấp độ Nghị định và Thông tư như trên sẽ dẫn tới hệ quả là một số quy định điều chỉnh về cùng một nội dung giữa Luật Hải quan 2001, Luật Hải quan sửa đổi 2005 với văn bản dưới luật không thống nhất, thậm chí trái Luật, ví dụ như: quy định về doanh nghiệp ưu tiên đặc biệt, thông quan trên cơ sở chứng từ tối thiểu đòi hỏi phải định nghĩa lại khái niệm về hồ sơ hải quan, quy định về giải phóng hàng… Do đó, với nội dung thứ (2) trong giai đoạn này, ngành cần thực hiện rà soát chi tiết có cập nhật, nghiên cứu, tiếp thu các kết quả rà soát của các Nhóm nghiên cứu của Tổng cục (bao gồm cả Nhóm rà soát các TTHC theo Đề án 30 của Chính phủ); mặt khác, để đảm bảo tính ổn định, bền vững cũng như hiệu quả thực tế của các chuẩn mực về TTHQĐT khi được nội luật hóa, giai đoạn này cần chú ý tới việc phân tích khoảng cách pháp lý đặc biệt là khâu đánh giá tác động của các quy định ở nội dung (1) làm tiền đề cho việc sửa đổi các nội dung liên quan tới TTHQĐT khi sửa đổi, bổ sung Luật Hải quan giai đoạn sau năm 2013.
Giai đoạn sau 2013:
Ở giai đoạn này, để đảm bảo một khung pháp lý toàn diện, giải pháp về dài hạn cho thực hiện TTHQĐT trên diện rộng và nhất quán các quy định về nghiệp vụ với TTHQ truyền thống thì cần phải sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan liên quan, các nghị định và thông tư hướng dẫn về TTHQ. Dự thảo Luật Hải quan sửa đổi, các Nghị định và thông tư hướng dẫn trong giai đoạn này cần tuân thủ đầy đủ các cam kết, phù hợp với yêu cầu quản lý hải quan hiện đại (tái thiết kế các quy trình TTHQ, thống nhất quản lý khu, kho, đơn giản hóa một số quy trình quản lý…). Giai đoạn này, ngành Hải quan cần chú trọng thực hiện rà soát tổng thể, phân tích khoảng cách và tác động pháp lý chi tiết, toàn diện để làm căn cứ ra quyết định sửa đổi một cách tổng thể hệ thống pháp luật hải quan.