Kinh Nghiệm Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Một Số Nhtm Nước Ngoài Và Bài Học Kinh Nghiệm Cho Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam


phân tích đặc trưng ngành của doanh nghiệp vay, phân tích khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp so với các đối thủ cùng loại trên thị trường. Phân tích các rủi ro hệ thống, rủi ro tình hình kinh tế...

Thẩm định khách hàng bao giờ cũng tồn tại mâu thuẫn giữa một bên là thẩm định quá kỹ thì chậm, khách hàng bỏ đi, với một bên là thẩm định qua loa thì rủi ro cao. Ngân hàng là một trung gian tài chính nên rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, những nhà quản lý ngân hàng giỏi phải biết chấp nhận rủi ro ở mức có thể chấp nhận được. Do đó việc thẩm định khách hàng phải luôn tuân thủ theo quy trình đã được đề ra. Bám sát theo đúng quy trình định sẵn, việc thẩm định sẽ không phải tốn nhiều thời gian do phải định hướng, mà vẫn có thể đảm bảo giảm thiểu được rủi ro.

Sau khi phân tích, đánh giá, thẩm định khách hàng, hồ sơ được duyệt, các ngân hàng tiến hành soạn thảo hồ sơ tín dụng mang tính ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý và giải ngân.

1.2.5.2.Giám sát và quản lý:

Trong thời hạn khoản vay, cần phải theo dõi việc sử dụng vốn vay của khách hàng, việc thực thi các phương án, kế hoạch trả nợ, rà soát bổ sung hồ sơ đảm bảo và đầy đủ. Mục đích nhằm giúp phát hiện kịp thời nhanh chóng những dấu hiệu cảnh báo sớm, những nguy cơ rủi ro tiềm ẩn để có biện pháp ngăn chặn, khắc phục, phòng ngừa. Nếu có dấu hiệu doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích: Ngưng việc giải ngân, đề nghị doanh nghiệp giải trình và yêu cầu thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng giải ngân.

Cần chú trọng việc giám sát và quản lý sau cho vay, giúp các ngân hàng gần gũi với khách hàng hơn, nắm bắt kịp thời nhu cầu cũng như những khó khăn để tư vấn và cùng nhau giải quyết. Muốn thực hiện được, nhân viên ngân hàng cần phải định kỳ thăm hỏi khách hàng, giám sát tình hình tài chính, đánh giá lại tiềm lực, khả năng của khách hàng, đồng thời rà soát lại hồ sơ vay, cập nhật tình hình biến động của thị trường, ngành nghề kinh doanh, những thay đổi dù nhỏ của khách hàng.

1.2.5.3. Thu hồi và xử lý nợ:

Giai đoạn thu hồi và xử lý nợ cũng vô cùng quan trọng. Bên cạnh việc rà soát lại hồ sơ, nhân viên ngân hàng cũng phải thường xuyên theo dõi việc trả nợ của khách hàng. Tiến độ trả nợ một phần đánh giá nên tiềm lực của khách hàng, cũng như thái độ cộng tác, nguy cơ rủi ro trong tương lai.

Nếu việc trả nợ đang tốt, bỗng dưng chậm lại một vài kỳ, nhưng vẫn thanh toán đủ, nhân viên ngân hàng cần phải tìm hiểu nguyên nhân, để tìm biện pháp khắc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.


phục, thậm chí có thể giúp ích được cho khách hàng bằng cách trao đổi với đối tác khách hàng khi cần thiết, tư vấn cho khách hàng những phương án mới giúp nhanh thu hồi được vốn...

Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Chi nhánh Hà Nội - 6

Nếu việc trả nợ thường xuyên chậm và để quá hạn nhiều kỳ, ngoài việc theo dõi, tìm hiểu nguyên nhân, đôn đốc khách hàng trả nợ, nhân viên ngân hàng cần phải tiến hành rà soát hồ sơ, thẩm định lại khả năng trả nợ và chuyển qua xử lý nợ.

Việc xử lý nợ cần phải được tiến hành càng sớm càng tốt theo đúng trình tự và thủ tục, nên có một bộ phận hoặc công ty xử lý nợ riêng biệt để tăng thêm tính chuyên môn hoá cao và đạt được hiệu quả như ý muốn.

Sau khi rà soát thẩm định lại khoản vay, khả năng trả nợ của khách hàng, nếu khoản vay vẫn còn có khả năng thu hồi, bộ phận xử lý nợ hoạch định kế hoạch và biện pháp thu hồi; nếu các khoản vay có nguy cơ mất khả năng thu hồi nợ, bộ phận xử lý nợ sẽ chuẩn bị phương án xử lý nội bộ, sau đó chuyển hồ sơ sang các cơ quan hữu quan có thẩm quyền thụ lý.

1.2.5.4 .Thẩm định lại rủi ro tín dụng:

Bên cạnh các giai đoạn trên, việc thẩm định lại rủi ro tín dụng nhằm giúp cho các ngân hàng xác định được mức độ tổn thất khi vỡ nợ có thể xảy ra để ngăn ngừa hoặc dùng quỹ dự phòng trích lập, xử lý trước.

Đối với những khoản vay không có bảo đảm, việc đánh giá mức độ tổn thất khi vỡ nợ phụ thuộc vào giá trị hiệu quả ròng trong bảng cân đối kế toán của khách hàng, tỷ trọng của tín dụng không bảo đảm/tổng giá trị tín dụng.

Đối với những khoản vay có bảo đảm, việc xác định mức độ tổn thất khi vỡ nợ được tiến hành theo hai khâu. Một là xác định giá trị của khách hàng, xem xét tài sản của khách hàng có thể bán đi và có những cách thức tin cậy giúp xác định giá trị tài sản này hay không. Hai là xác định liệu những tài sản nhất định của khách hàng có thể được thanh lý độc lập với nhau hay không khi vỡ nợ, nếu khách hàng phá sản thì còn lại được những gì?

Việc thẩm định lại rủi ro tín dụng, xác định mức độ thiệt hại khi vỡ nợ xảy ra, hoặc là hậu quả của việc không trả được nợ để xác định mức độ tổn thất ước tính là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến mức dự phòng rủi ro mà các ngân hàng đặt ra. Hoạt động của ngân hàng là phân bổ nguồn vốn kinh tế dựa trên mức độ tổn thất ước tính nhưng cần chú ý tính toán các khoản vay sao cho có thể bù đắp được những tổn thất dự kiến và các tổn thất ngoài dự kiến, tức là cần phải tính đến cả các yếu tố như khả năng vỡ nợ,


1.3. Kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng của một số NHTM nước ngoài và bài học kinh nghiệm cho Ngân hàng thương mại Việt Nam

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ vừa qua đã ảnh hưởng tới nền kinh tế tài chính toàn cầu. Nguyên nhân của nó bắt đầu từ khủng hoảng các hợp đồng cho vay bất động sản thế chấp, tổng số khoảng 12 ngàn tỷ USD, trong đó 3 đến 4 ngàn tỷ USD là dưới chuẩn, khó đòi. Những người không có khả năng trả nợ cũng được cho vay. Những hợp đồng đó được chuyên gia tài chính Phố Wall gom lại và phát hành chứng khoán phái sinh, được bảo đảm bởi những hợp đồng cho vay thế chấp này để bán ra trên khắp các thị trường quốc tế.

Khi các chứng khoán này mất giá thảm hại, thị trường không có người mua, nên các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các tổ chức tài chính nắm hàng ngàn tỷ USD chứng khoán đó không bán được, mất khả năng thanh khoản, và mất khả năng thanh toán, đi đến gục ngã hoặc phá sản.

Chính phủ Mỹ đã đưa ra các gói giải pháp để mua những tài sản nhiễm độc đó, nay đổi hướng một phần 250 tỷ USD (trong gói 700 tỷ USD) mua cổ phần của các ngân hàng...

Điều này không chỉ có ở Mỹ mà các thị trường tài chính nhiều nước châu âu cũng bắt chước Mỹ phát hành các trái phiếu phái sinh tương tự, tổng số chứng khoán phái sinh này hiện nay trên toàn thế giới chưa thể ước lượng được, vì vậy tác động của nó trên toàn thế giới cũng chưa thể đo lường hết được. Nhiều ngân hàng vì mất khả năng thanh khoản đã co lại, rút lại tín dụng, điều này đã khiến các doanh nghiệp khó tiếp cận thị trường vốn và bị ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất kinh doanh.

Từ cuộc khủng hoảng tín dụng Mỹ, cho thấy nguyên nhân xuất phát phần lớn từ việc quản lý kiểm soát khoản vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán còn yếu kém, chất lượng tín dụng không được coi trọng, có nhiều khoản cho vay dưới chuẩn, không thẩm định kỹ trước khi cho vay, sử dụng nguồn huy động ngắn hạn để đầu tư vào những khoản dài hạn như bất động sản nên không tránh khỏi rủi ro mất khả năng thanh toán và không thu hồi được nợ. Đó cũng là bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam khi rơi vào tình trạng tương tự.

1.3.1. Những kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng của các nước trên thế giới:

1.3.1.1. Quản lý rủi ro tín dụng bằng biện pháp trích lập dự phòng.

Trích lập dự phòng là cách thức hữu hiệu để quản trị rủi ro do tổn thất tín

dụng. Việc trích lập dự phòng phải căn cứ vào thực tế trả nợ vay thay vì căn cứ vào


khả năng trả nợ trong quá khứ của khách hàng. Các nước chia sẻ kinh nghiệm rằng họ áp dụng các nguyên tắc dự phòng khác nhau dựa theo việc phân loại nợ vay có khả năng gây tổn thất ở mức độ khác nhau.

- Hồng Kông: xếp loại rủi ro cho khách hàng và trích lập dự phòng tương ứng.

- Hàn Quốc: các nguyên tắc dự phòng phân lập theo loại tín dụng.

- Singapore: dự phòng tổn thất khoản vay ước tính từ danh mục vay được áp

dụng cho các khoản vay tiêu dùng.

- Thái Lan: phân loại khoản vay được đưa vao luật. Các cơ quan giám sát ngân

hàng có quyền yêu cầu trích lập dự phòng cho các khoản vay cần chú ý.

- Columbia: dự phòng cho tín dụng tiêu dùng, thương mại, cầm cố thế chấp và tín dụng nhỏ theo thời hạn khoản vay từ 1-18 tháng.

* Quản lý RRTD bằng biện pháp tuân thủ những nguyên tắc tín dụng thận trọng.

- Hồng Kông: giới hạn cho vay các đối tác ở mức 5%giá trị ròng doanh nghiệp. Tổng dư nợ vay cho các đối tác không vượt quá 10% vốn tự có Ngân hàng.

- Hàn Quốc: giới hạn cho vay cổ đông ở mức 25% vốn tự có Ngân hàng hoặc tỷ lệ

mà họ sở hữu. Giới hạn cho vay các đối tác liên quan ở mức 10% vốn tự có Ngân hàng.

- Singapore: Ngân hàng không được phép tham gia vào các hoạt động phi tài chính. Cũng không được phép đầu tư hơn 10% vốn vào các công ty hoạt động phi tài chính. Mức đầu tư vốn vào một công ty đơn lẻ giới hạn ở 2% vốn tự có Ngân hàng. Tổng vốn đầu tư giới hạn ở 10% vốn tự có Ngân hàng.

- Thái Lan: giới hạn đầu tư ở mức 10% vốn khách vay và 20% vốn của Ngân hàng. Giới hạn cho vay cho nhóm khách hàng ở mức 5% vốn ngân hàng, 50% giá trị ròng của doanh nghiệp và 25% giá trị nợ.

- Columbia: giới hạn cho vay cho nhóm khách hàng liên quan 10% vốn tự có.

Mở rộng tới 25% nếu có tài sản đảm bảo tốt.

1.3.1.2. Quản lý rủi ro tín dụng bằng biện pháp đặt ra hạn mức cho vay

Phòng ngừa rủi ro do tập trung tín dụng là hoạt động được xem là thường

xuyên của Ngân hàng các nước trong việc quản lý danh mục tín dụng của mình.

Biện pháp sử dụng là đặt ra các hạn mức cho vay dựa trên vốn tự có của Ngân hàng đối với khách hàng vay riêng lẻ hay nhóm khách hàng vay:

- Hồng Kông: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn tự có của

Ngân hàng.

- Hàn Quốc: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 20% vốn tự có của Ngân

hàng và giới hạn cho vay nhóm khách hàng ở mức 25% vốn tự có của ngân hàng.


- Singapore: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn tự có của

Ngân hàng.

- Thái Lan: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn tự có của

Ngân hàng.

- Columbia: giới hạn vay ở mức 40% giá trị ròng của khách hàng vay.

1.3.1.3. Quản lý rủi ro tín dụng bằng biện pháp kiểm tra, giám sát

Kiểm tra và giám sát là các hoạt động thường xuyên được thực hiện trước khi

cho vay, trong khi cho vay và sau khi cho vay:

- Hồng Kông: sử dụng mô hình CAMEL (vốn, tài sản, quản lý, thu nhập, thanh

khoản) để đánh giá.

- Hàn Quốc: sử dụng mô hình CAMELS (vốn, tài sản, quản lý, thu nhập, thanh khoản và thử nghiệm chịu đựng cực điểm). (Capital, Assets, Management, Earnings, Liquidity and Stress testing)

- Singapore: kiểm tra trong quá trình phát vay, báo cáo hàng tháng và hàng quý.

- Thái Lan: kiểm tra trong quá trình phát vay và sau khi cho vay. Giám sát hệ số đủ vốn dự báo. Có hệ thống báo cáo định kỳ.

- Columbia: kiểm tra trong quá trình phát vay, kiểm tra bởi Ủy ban giám sát NH.

1.3.1.4. Quản lý rủi ro tín dụng bằng biện pháp quản trị hệ thống thông tin tín dụng

Tổ chức tốt hệ thống thông tin tín dụng sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác thẩm định

khách hàng vay, giúp hạn chế phòng ngừa rủi ro ngay từ khâu thẩm định hồ sơ vay:

- Singapore: Hiệp hội Ngân hàng tổ chưc và quản lý thông tin tín dụng từ các

thành viên. Hỗ trợ thông tin về các khoản tín dụng lớn.

- Thái Lan: Cục thông tin tín dụng được quản lý bởi công ty tư nhân, tất cả các Ngân hàng báo cáo thông tin về Cục, sau đó Cục thông tin kết xuất báo cáo về khách hàng vay và lịch sử trả nợ vay hàng tháng, không cung cấp thông tin thẩm định tín dụng.

- Columbia: Ngân hàng báo cáo các khoản vay cho cơ quan giám sát theo định kỳ hàng tháng. Sau đó thông tin về giá trị khoản vay, lãi suất vay, chất lượng khoản vay và tư cách khách hàng vay sẽ được tập hợp lại.

1.3.2. Bài học đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Thông qua kinh nghiệm quản lý RRTD của các nước trên, có thể rút ra bài học cho các NHTM ở Việt Nam như sau:

Thứ nhất xây dựng ý thức về quản lý rủi ro tín dụng tới từng cán bộ.

Yếu tố con người luôn mang lại sự thành công cho mỗi đơn vị, tập đoàn. Tất cả


các nhân viên Ngân hàng cần được đào tạo để nắm vững các kiến thức hiểu biết về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng. Các nhân viên cần xác định nguyên nhân, đánh giá rủi ro trong từng sản phẩm tín dụng, quy trình tín dụng và quản lý tín dụng.

Thứ hai áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ

Các ngân hàng nên tiến hành cho điểm, xếp hạng rủi ro và xác định hạn mức tín dụng đối với tất cả các khách hàng nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí và cũng để hạn chế sự tham gia của con người vào trong quá trình đánh giá, ra quyết định, tránh các rủi ro do tính chủ quan.

Thứ ba chú ý hơn đến việc phân quyền phán quyết tín dụng

Phân quyền phán quyết tín dụng giúp tiết kiệm thời gian cũng như tăng tính trách nhiệm đối với các cán bộ tín dụng về quyết định của mình, phát huy tính sáng tạo, chủ động trong cho vay của họ.

Thứ tư xây dựng một hệ thống CNTT hiện đại.

Hệ thống CNTT hiện đại giúp cho các cán bộ ngân hàng có thể dễ dàng tra cứu tìm kiếm thông tin liên quan đến khách hàng. Ngoài ra, một hệ thống CNTT hiện đại cũng giúp nâng cao chất lượng công tác phân tích, thẩm định khách hàng, giảm thiểu rủi ro do thiếu thông tin. Hệ thống thông tin công nghệ cần được bảo dưỡng và cập nhật thường xuyên.

Thứ năm ngân hàng nên tổ chức thu thập thông tin thông qua tiếp xúc trực

tiếp với khách hàng

Các NHTM nên thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, thông qua gặp gỡ trao đổi cán bộ ngân hàng có thể phát hiện ra những biểu hiện, nguy cơ tạo rủi ro. Từ đó, có thể có những biện pháp xử lý kịp thời.

Thứ sáu: Ngân hàng cần hạn chế tối đa các nguyên nhân RRTD từ bên ngoài.

Các nguyên nhân RRTD từ bên ngoài xảy ra do môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế xã hội... có những biến động thất thường. Ngân hàng cần xây dựng các phương án, đưa ra các tình huống để sẵn sàng đối phó cũng như khắc phục kịp thời hậu quả do các lỗi truyền thông, thiên tai, hỏa hoạn… gây ra. Giải pháp cơ bản cho việc đưa ra quyết định là công nhận rủi ro, giảm thiểu rủi ro bằng mở rộng hệ thống kiểm soát, nâng cao chất lượng công nghệ thông tin…

Đây là lúc hệ thống ngân hàng cần nhìn nhận lại và rút ra những bài học kinh nghiệm trong củng cố khả năng quản trị rủi ro nhằm hướng tới mục tiêu an toàn hiệu quả. Trên thực tế các NHTM Việt Nam cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hoạt động tín dụng bất động sản. Hơn thế, các NHTM Việt Nam cũng dùng hệ thống


chấm điểm tín dụng để đánh giá khách hàng vay. Tuy nhiên, hệ thống điểm số này có quá nhiều bất cập nên cũng không phản ánh được chất lượng tín dụng bất động sản. Hệ thống chấm điểm tín dụng hàm chứa quá nhiều nhược điểm, nhưng lại là cơ sở để ra quyết định cho vay, vì thế có thể xuất hiện những trường hợp "nợ dưới chuẩn".

Tóm lại, trong chương 1 đã khái quát về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng đồng thời nêu ra kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng của một số nước trên thế giới. Có thể nói rằng tín dụng là một hoạt động rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nhưng lại chứa đựng rất nhiều rủi ro, nó không chỉ gây thiệt hại, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế xã hội. Xuất phát từ những phân tích, đánh giá về bản chất, dấu hiệu, nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, các ngân hàng sẽ lựa chọn các giải pháp thích hợp để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục thành công rủi ro.


CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG VÀ CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂNNÔNG THÔN HÀ NỘI


2.1. Đặc điểm Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội là một chi nhánh trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, có chức năng là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là cho vay đối với mọi thành phần kinh tế và huy động vốn .Vai trò chủ yếu của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội là tạo lập nguồn vốn cung cấp các dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp đáp ứng các nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn thủ đô ...góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội được thành lập theo quyết định số 51-QĐ/NH/QĐ ngay 27/6/1988 của tổng giám đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam (bây giờ là thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam) với tên gọi ban đầu là ngân hàng nông nghiệp Hà Nội

Ngày 15-10-1996, ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội được đổi tên thành Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.

Hiện nay khách hàng biết đến NHN0&PTNT Hà Nội với:

Tên đầy đủ bằng tiếng việt : Chi nhánh ngân hàng Nông nghiêp Và Phát Triển Nông Thôn Hà Nội.

Tên giao dịch quốc tế bằng tiếng Anh: Hanoi Bank For Agricultur And Rulral

Deverlopment.

Trụ sở chính: 77 Lạc trung –Quận Hai Bà Trưng- Hà nội.

Lúc đầu thành lập NHN0&PTNT Hà Nội bao gồm 12 chi nhánh huyện trực thuộc và trụ sở chính với 1182 cán bộ ,18 tỷ nguồn vốn chủ yếu tiền gửi ngân sách huyện và 16 tỷ dư nợ.

Tháng 9-1991 theo quyết định của NHN0&PTNT Việt Nam, 7 ngân hàng huyện : Hoài Đức ,Thạch Thất, Ba Vì, Sơn Tây, Đan Phượng, Phú Thọ, được bàn giao về tỉnh Hà Tây và huyện Mê Linh về tỉnh Vĩnh Phú.

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 04/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí