Chương III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO
KINH NGHIỆM VỀ PHÁT TRIỂN VIỄN THÔNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1. Kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ phát triển viễn thông ở Ấn Độ
Chính sách giữ vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển viễn thông của một đất nước. Tại Ấn Độ, do có sự chuyển biến mạnh về chính sách, ngành viễn thông nước này đã có những bước phát triển nhanh chưa từng thấy.
Từ trước đến nay, nhiều người vẫn ca ngợi về tốc độ phát triển viễn thông và công nghệ thông tin nói chung của Ấn Độ. Thực ra, chỉ có công nghiệp phần mềm của Ấn Độ thực sự phát triển với tốc độ nhanh. Nhiều doanh nghiệp lớn từ các nước phát triển đến Ấn Độ và người Ấn ở Sillicon Valley (Mỹ) về nước mở doanh nghiệp, sử dụng lao động trong nước thông minh, giá rẻ làm gia công, sản xuất phần mềm đóng gói để xuất khẩu. Hiện nay, mỗi năm Ấn Độ xuất khẩu phần mềm đạt 30 tỷ USD, dự kiến đến trước năm 2010 sẽ đạt 70-80 tỷ USD.
Về viễn thông, Ấn Độ vẫn còn nhiều yếu kém. Cho đến cuối năm 2002, cả nước Ấn Độ với hơn 1 tỷ dân chỉ có 43 triệu máy điện thoại, đạt mức phổ cập trung bình 3 máy/100 dân, trong đó có 36 triệu máy cố định và 7 triệu máy di động. Tuy nhiên, nhờ có quy hoạch phát triển viễn thông 10 năm do Chính phủ đề ra năm 2000 để khắc phục những yếu kém nói trên, tính đến tháng 8/2005, tổng số máy điện thoại của Ấn Độ đã lên đến 110 triệu, mật độ điện thoại là 10,12 máy/100 dân, trong đó có 62,57 triệu di động và 47.44 triệu máy cố định.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam khi gia nhập WTO - 6
- Khả Năng Tiếp Cận Và Khai Thác Các Nguồn Lực
- Cơ Hội Và Thách Thức Của Vnpt Khi Việt Nam Gia Nhập Wto
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam khi gia nhập WTO - 10
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam khi gia nhập WTO - 11
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam khi gia nhập WTO - 12
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
Mục tiêu của Chính phủ Ấn là đến năm 2007, tổng số máy di động là 150 triệu, máy cố định 50 triệu (7).
Đạt được tốc độ phát triển nhanh như vậy trước hết phải nói đến sự thay đổi về chính sách giá cước của Ấn Độ: Chính phủ Ấn Độ đã thay đổi cơ chế thu cước di động, từ thu cả hai chiều đi và đến chuyển sang chỉ thu cước chiều đi và hạ giảm giá cước. Năm 2003, Cục quản lý viễn thông và vô tuyến điện (thuộc Bộ Thông tin và kỹ thuật tin học – TRAI) đã điều chỉnh hạ giảm mức cước phí thông tin di động, từ 0,77 rupi xuống còn 0,49 rupi/phút (1 USD = 45 rupi), giảm 36,6%. Năm 2004, TRAI huỷ bỏ cách thu cước thông tin di động trong nước 0,3
– 0,8 rupi/phút, thực hiện thu cước thống nhất 0,3 rupi/phút, cước điện thoại di động quốc tế chỉ còn 3,25 rupi/3 phút đầu tiên và cước điện thoại cố định quốc tế cũng hạ giảm từ 4,25 rupi xuống còn 2,5 rupi. Hai doanh nghiệp viễn thông nhà nước của Ấn Độ là MTNL và BSNL đã hưởng ứng lời hiệu triệu của Chính phủ, từ tháng 1/2005 đã đưa ra giá cước dịch vụ băng thông rộng thấp nhất thế giới. Dùng mạng cố định tốc độ 256 Kbps với giá 500 rupi/tháng (khoảng 11 USD). Một chính sách khác của Ấn Độ là hạ giảm giá cước thuê kênh trong nước, mục đích là hạ giảm giá thành dịch vụ băng thông rộng trong nước và nâng cao sức cạnh tranh quốc tế.
Thứ hai là phải nói đến việc: tháng 6/2004, Chính phủ mới của Đảng Quốc đại lên cầm quyền, đưa ra “Kế hoạch 10 điểm”, trong đó có việc quá độ kỹ thuật mạng Internet lên tiêu chuẩn Ipv6 trước cuối năm 2006; thúc đẩy nghiên cứu phát triển kỹ thuật viễn thông và tin học; đưa ra mục tiêu 3 năm phát triển nâng mức phổ cập điện thoại từ 7 máy lên 14 máy/100 dân; nghiên cứu phát triển máy
7 http://www.mpt.gov.vn/details.asp?Object=151130723&News_ID=100000329
tính cá nhân và đầu cuối thông tin giá rẻ; thúc đẩy phát triển tên miền; thiết lập hệ thống chuyển mạch cả nước, kết nối tất cả các nhà kinh doanh dịch vụ, nhờ đó nâng cao hiệu suất đường truyền thông tin, hạ giá thành và nâng cao chất lượng Internet. Đẩy mạnh phát triển Internet là một chủ trương và biện pháp chủ yếu của Chính phủ Ấn Độ. Tháng 9/2004, cả nước chỉ có 2,36 triệu hộ dùng Internet, mức phổ cập chỉ là 0,2%, kém xa nhiều nước Châu Á. Chính phủ Ấn Độ đã ban hành chính sách đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng băng thông rộng; dùng nhiều cáp quang thay thế dây và cáp đồng; cung cấp nhiều thiết bị lên mạng tốc độ cao; thúc đẩy mạnh kỹ thuật vô tuyến và thông tin vệ tinh, mục tiêu đến năm 2010 có 40 triệu người sử dụng Internet, trong đó có 20 triệu người dùng Internet băng thông rộng, đạt tốc độ phát triển trung bình mỗi năm là 44%.
Thứ ba là chính sách hỗ trợ của Chính phủ thời gian gần đây đã góp phần to lớn vào việc phát triển viễn thông ở Ấn Độ. Ấn Độ đã cho mở cửa dịch vụ điện thoại IP sớm hơn so với dự định. Lẽ ra VSNL độc quyền đến năm 2004, nay rút xuống chỉ còn đến tháng 4/2002. Ấn Độ cũng cho phép các nhà kinh doanh dịch vụ Internet (ISP) được thiết lập mạng thuê bao cáp đồng, nếu không thuê được của các doanh nghiệp khác, để phát triển nhanh dịch vụ băng thông rộng (nhưng phải xin phép cơ quan có thẩm quyền). Tháng 4/2004, TRAI còn kiến nghị cho phép các ISP được lắp đặt cáp quang và hệ thống tiếp nhận vô tuyến điện.
Thứ tư là Chính phủ Ấn Độ đã nới lỏng hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực viễn thông, lập nên cơ chế quản lý rộng mở, công băng hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ví dụ nâng mức đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào ngành viễn thông từ 49% khi cam kết gia nhập WTO lên 74%. Chính điều này đã khiến cho các nhà kinh doanh dịch vụ viễn thông quốc tế hết
sức quan tâm đến chính sách mở cửa thị trường của Ấn Độ. Hutchison (Hongkong) tháng 9/2005 đã tuyên bố đầu tư thêm 4 tỷ HKD (khoảng 500 triệu USD) để mở rộng dịch vụ di động ở Ấn Độ. Tháng 10/2005, Vodafone (Anh) đã bỏ ra 820 triệu bảng Anh để mua 10% cổ phần của công ty Bharti. Tháng 9/2005, Alcatel đã ký kết hợp đồng với Viện nghiên cứu viễn thông (C-DOT) của Chính phủ Ấn Độ để lập trung tâm nghiên cứu chung về phát triển mạng vô tuyến băng thông rộng WiMax ở nước này.
Thứ năm là Ấn Độ cũng đã tìm cách giải quyết thoả đáng việc cổ phần hoá các doanh nghiệp viễn thông. Để đảm bảo cổ phần hoá thuận lợi doanh nghiệp viễn thông nhà nước, Chính phủ một mặt khuyến khích các công ty viễn thông mua lại số cổ phần mà Chính phủ bán, mặt khác đưa ra yêu cầu nghiêm khắc về tư cách các doanh nghiệp mua cổ phần của Chính phủ nhằm ngăn ngừa thất thoát vốn nhà nước. Ngoài ra Chính phủ cũng áp dụng một loạt các giải pháp bù đắp tổn thất do kết thúc vai trò độc quyền của VSNL gây nên, trong đó có việc cho phép miễn trừ phí cấp phép gia nhập thị trường điện thoại đường dài trong nước, cấp phép cho cung cấp dịch vụ Internet trên phạm vi cả nước.
Thứ sáu là Chính phủ Ấn Độ cũng ủng hộ các doanh nghiệp viễn thông trong nước tiến ra thị trường quốc tế. Tháng 9/2005, VSNL đã chi 239 triệu USD mua công ty Teleglobe, một cách kinh doanh toàn cầu, có hơn 1.400 khách hàng bán sỉ. Thông qua giao dịch này, VSNL sẽ có được mạng lưới hiện đại, kết nối với hơn 240 quốc gia và vùng lãnh thổ, thừa kế quyền lợi của Teleglobe ở hơn 80 tuyến cáp biển và trên đất liền, cùng các hợp đồng hợp tác với hơn 200 nhà kinh doanh viễn thông hàng đầu thế giới. Trước đó, VSNL đã mua mạng toàn cầu của công ty Take (Mỹ) nhằm mở rộng phạm vi phủ sóng của mạng lưới đã có, sớm thực hiện mục tiêu toàn cầu hoá.
Kinh nghiệm về phát triển công nghệ thông tin và chính sách viễn thông của Nhật Bản
Năm 2001, Nhật Bản đã đề ra “Chiến lược Nhật Bản điện tử” với mục tiêu chính là đưa Nhật Bản trở thành quốc gia công nghệ thông tin tiên tiến nhất thế giới vào năm 2005. Bốn khu vực được ưu tiên đầu tư phát triển trong chiến lược này là: cơ sở hạ tầng với nguyên tắc tạo chủ động cho lĩnh vực tư nhân để tạo ra một môi trường tiến bộ nhất thế giới cho phát triển Internet; khu vực thứ hai là thương mại điện tử với nguyên tắc xây dựng sự tin tưởng giữa các thành viên và đạt được sự hài hoà môi trường quốc tế; khu vực thứ ba là chính phủ điện tử với nguyên tắc cải cách hành chính, xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội cho việc sử dụng công nghệ thông tin mà mục tiêu là có môi trường thuận lợi cho việc truy cập liên tục vào năm 2005, 30 triệu hộ dân có dịch vụ truy cập tốc độ cao, 10 triệu hộ dân có dịch vụ truy cập tốc độ cực cao; khu vực thứ tư là phát triển nguồn nhân lực với việc triển khai xoá nạn mù công nghệ thông tin, tuyển dụng các giảng viên công nghệ thông tin, tạo thuận lợi và chăm lo phát triển đội ngũ chuyên gia và kỹ sư công nghệ thông tin.
Chỉ sau ba năm triển khai, kết quả mà Nhật Bản đạt được đã khiến không ít quốc gia thán phục. Đến hết năm 2003, Nhật Bản đã có môi trường thuận lợi cho việc truy cập liên tục, dịch vụ truy cập tốc độ cao DSL đã sẵn sàng cho 35 triệu hộ dân, dịch vụ truyền hình cáp tốc độ cao đã sẵn sàng cho 23 triệu hộ dân, dịch vụ truy cập tốc độ cực cao sẵn sàng cho 17,7 triệu hộ dân. Số thuê bao băng rộng của họ đã vượt mức 13 triệu và đang nhanh chóng theo kịp Hàn Quốc – quốc gia đứng thứ hai thế giới về số lượng thuê bao băng rộng. Với công nghệ
DSL, Nhật Bản cũng đang tìm cách nhanh chóng tăng số lượng sử dụng cáp quang. Hiện nay Nhật đã có gần 10 triệu người sử dụng công nghệ này.
Một thành công nữa của Nhật Bản là hiện họ đang là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về sử dụng Internet di dộng. Số hợp đồng thuê bao Internet di động đã tăng vọt lên hơn 67 triệu chỉ trong bốn năm rưỡi. Khả năng tương thích Internet của điện thoại di động tại Nhật hiện là 80%, đứng đầu thế giới.
Có thể nói như vậy là Nhật Bản đã thành công trong giai đoạn một. Tuy nhiên, mức độ sử dụng thực tế so với khả năng cung cấp vẫn còn khoảng cách khá xa. Với dịch vụ DSL, mức dùng hiện nay chỉ chiếm 28,3% so với khả năng cung cấp, dịch vụ truyền hình cáp mức sử dụng thực tế chỉ chiếm 10,6%. Vì vậy, từ ngày 2/7/2003, Nhật Bản đã bắt đầu khẩn trương bước vào giai đoạn hai của chiến lược công nghệ thông tin là tăng mức sử dụng thực tế với mục tiêu xây dựng “một xã hội thuận tiện, ấn tượng, an toàn và mạnh mẽ”. Để xây dựng một xã hội mới này, Nhật Bản tập trung vào xây dựng môi trường công nghệ thông tin thế hệ tiếp theo, xây dựng môi trường sử dụng an toàn, chú trọng nghiên cứu và phát triển để thúc đẩy nguồn trí thức cho thế hệ sau, phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và phát triển các mối quan hệ quốc tế mới tập trung vào công nghệ thông tin.
Về chính sách phát triển viễn thông: Nhật Bản đã chủ trương mở cửa thị trường và khuyến khích cạnh tranh trong viễn thông tại Nhật Bản, từ tháng 4/1985 bắt đầu giai đoạn một của quá trình cải cách viễn thông. Trong giai đoạn này, Nhật Bản tiến hành mở cửa thị trường viễn thông, bắt đầu có cạnh tranh và tư nhân hoá ngành truyền thông. Năm 1995 là giai đoạn hai của quá trình cải cách với chính sách cạnh tranh tự do. Những nguyên tắc cạnh tranh bắt đầu được
ban hành. Giai đoạn này tập trung vào chính sách xúc tiến kết nối và cơ cấu lại ngành truyền thông. Tháng 7/1999, chính sách cạnh tranh được thúc đẩy xa hơn, chú trọng phổ biến và phát triển Internet, chuẩn bị cho môi trường truyền thông, xúc tiến và phát triển sử dụng radio. Từ tháng 6/2001, Nhật Bản có thêm chính sách mới cho khuyến khích cạnh tranh trong đấu thầu để xúc tiến cách mạng công nghệ thông tin và xúc tiến xây dựng cơ sở hạ tầng liên quan đến công nghệ thông tin. Uỷ ban giải quyết tranh chấp trong kinh doanh viễn thông và cơ cấu quỹ phổ cập dịch vụ được thành lập. Ngành truyền thông được mở rộng sự tự do trong điều hành kinh doanh.
Nhờ chính sách khuyến khích cạnh tranh nên số nhà khai thác trong thị trường viễn thông đã tăng lên đáng kể. Vào tháng 1/1985 Nhật Bản có tổng số 87 nhà khai thác, đến tháng 6/2003 tổng số đã có 11.540 nhà khai thác, gấp 132 lần so với 18 năm trước đó. Cước phí dịch vụ viễn thông cũng giảm đều. Cước điện thoại đường dài và dịch vụ điện thoại quốc tế hiện nay chỉ còn bằng chưa đến 10% so với năm 1985. Thói quen sử dụng dịch vụ điện thoại cũng thay đổi. Đến tháng 11/2000, số thuê bao di động đã vượt số thuê bao cố định. Vào thời điểm này số thuê bao di động đã đạt 62,8 triệu trong khi thuê bao cố định mới đạt 62,2 triệu. Số lượng thuê bao băng rộng đặc biệt là DSL đã tăng mạnh. Tháng 9/2003 đã có 12,9 triệu thuê bao trong đó có hơn 9,2 triệu thuê bao DSL.
Một số nhận xét rút ra từ các bài học kinh nghiệm về phát triển viễn thông có thể vận dụng vào việt Nam
Phân tích kinh nghiệm phát triển viễn thông ở Ấn Độ và Nhật Bản cho thấy việc đưa ra đường lối chính sách phát triển đúng đắn là hết sức quan trọng đối với sự phát triển của ngành nói chung và của các doanh nghiệp viễn thông nói riêng đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước trước thềm WTO. Việt
Nam đang trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới do vậy việc học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước như Nhật Bản và Ấn Độ là rất cần thiết. Có thể nói hai quốc gia này đã rất thành công trong việc đưa ra các chính sách phát triển viễn thông của đất nước. Từ thực tế viễn thông ở Việt Nam, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất là Việt Nam cần có chính sách hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp trong nước làm tốt công tác chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế, thông qua việc tái cơ cấu lại tổ chức, cổ phần hoá, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực.
Thứ hai là tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp viễn thông trong và ngoài nước để từ đó thúc đẩy mỗi doanh nghiệp không ngừng nỗ lực nâng cao khả năng cạnh tranh của mình để phát triển.
Thứ ba là có chính sách ưu tiên đầu tư cho công nghệ thông tin, vì đây làlĩnh vực gắn bó chặt chẽ với viễn thông, là nền tảng cho sự phát triển của viễn thông, quyết định đến chất lượng của dịch vụ viễn thông đặc biệt là trong thời điểm hiện nay, khi các nước không ngừng đổi mới và cải tiến công nghệ để tăng cường khả năng cạnh tranh. Do vậy, việc ưu tiên đầu tư cho phát triển công nghệ thông tin là hết sức cần thiết.
GIẢI PHÁP VỀ PHÍA CHÍNH PHỦ
Quyết tâm thực hiện các chiến lược đã đề ra
Thách thức sống còn của nền kinh tế nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là thoát nhanh khỏi tình trạng tụt hậu, tìm ra con đường “đi tắt, đón đầu” nhằm giải quyết hai nhiệm vụ nặng nề. Thứ nhất, Việt Nam phải công nghiệp hóa theo lộ trình chuyển đổi đi lên từ một nước nông nghiệp. Thứ hai, phải nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật để hình thành và phát triển